S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tuân Nguyễn

1

“Việc xảy đến với Tuân… thật đột ngột và bất ngờ. Nó cứ như tai họa từ đâu bỗng giáng xuống gia đình Vương Thúy Kiều vào năm Gia Tĩnh triều Minh… Trong một khoảng thời gian ngắn, tai họa đến với ba người bạn tôi: Tuân Nguyễn, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Huy Cương.”

Hà Nhật tâm sự như trên, trong bài viết có tựa là : “Tuân Nguyễn, Kẻ Mộng Mơ”. Tôi không quen nhưng biết cả ba nhân vật này, cùng với những tai hoạ “đính kèm” trong cuộc đời (lao đao) của họ. Câu chuyện hôm nay xin (chỉ) đề cập đến ông Tuân Nguyễn, như một nén hương lòng – gửi người đã khuất!

Trong một bài viết khác (“Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội”) Phùng Quán kể:

Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, làm thầy giáo. Sau đó được điều về Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam…Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân văn Giai phẩm phải về tá túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm…

Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin…

Một lần, tôi hỏi Tuân:

– Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à…?

– Có ngại cái con cặc. Đù mạ …! (Phùng Quán, “Người Bạn Lính Cùng Tiểu Đội.” Ba Phút Sự Thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn 2007, 180-181).

Ở Việt Nam mà quan hệ và nói năng “linh tinh” như thế thì (e) sẽ lắm chuyện lôi thôi. Và rồi Tuân Nguyễn bị lôi thôi thật, lôi thôi lâu, lôi thôi lắm, và lôi thôi lớn. Ông bị bắt vào ngày 21 tháng 10 năm 1964, và được thả … mười năm sau đó! Sau đó, vẫn theo lời Phùng Quán :

“Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:

– Trời… Tuân!

Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Tuân Nguyễn. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:

– Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…

Tuân cười buồn:

– Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?

– Cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…

Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:

– Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.

Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.

– Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

– Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào, tôi hỏi.

– Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định
viết, vì đã viết được hai chương đầu… Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn
. (P. Quán, sđd, tr. 152-153)

Số “vàng ròng” quí báu này, tiếc thay, Tuân Nguyễn không bao giờ có dịp dùng đến. Ông đột ngột qua đời vì một tai nạn lưu thông. Hà Nhật bùi ngùi kể lại :

“Vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm Tuân rồi đưa Tuân đến nghĩa địa Gò Dưa bên Thủ Đức, cúng ‘mở cửa mả’ cho Tuân, những chuyện ấy dồn dập xảy ra cứ như là không có thật. Buổi chiều ấy, ngồi nói chuyện với Cao Xuân Hạo về Tuân Nguyễn, Hạo buông một câu nghe mà lạnh người :

– Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng cái vai trò này : khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi, sao mà tôi khổ thế?’, thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ.”

Có lẽ vì “xót” bạn nên nhà ngữ học Cao Xuân Hạo đã nói (hơi) quá ra như thế. Chứ những mảnh đời te tua bầm dập, với chung cuộc thê thảm và lãng xẹt (cỡ) như Tuân Nguyễn – hay chỉ hơn thua chút đỉnh – đâu có nhằm nhò hay hiếm hoi gì, ở Việt Nam. Nơi mà Phùng Quán mô tả là “chín người – mười cuộc đời rạn vỡ. Bị ruồng bỏ, và bị lưu đầy.”

Và những kẻ đã bị lưu đầy, theo lời Nguyễn Chí Thiện, không mấy ai trở lại :

Trại lính, trại tù người đi không ngớt…
Người về thưa thớt, dăm ba!

Nghe mà thấy ghê!

Ông Tuân Nguyễn chỉ là một đại diện tiêu biểu – cho hàng chục triệu người “đi không ngớt” vào những “trại lính, trại tù,” và cả chục triệu những “cuộc đời rạn vỡ” khác – ở Việt Nam, thế thôi! Hy vọng là giáo sư Cao Xuân Hạo đủ bao dung, cho phép kẻ hậu sinh này đổi lại vài chữ trong câu nói (“lạnh người”) của ông – thế này :

“Người Việt sinh ra ở đời để đóng vai trò này : khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi sao dân tộc tôi khổ thế này,’ khi nhìn vào Việt Nam sẽ thấy nỗi khổ của dân tộc mình … cũng chưa đến nỗi nào!”

Khổ như thế, đã đành. Chuyện không đành là ở đất nước này khi đề cập đến những chuyện khốn nạn, tàn ác, bất nhân, vô luân … (đại loại như những chuyện nát lòng đã xẩy ra cho Tuân Nguyễn) thì mọi người bỗng dưng nhỏ giọng, thì thào; nếu không, cũng phải vội vàng rào đón hay che chắn trước sau.

Nghe mà phát mệt!

Thử đọc một đoạn trong bài “Tuân Nguyễn Phận Mỏng Cánh Cò” (của nhà thơ Vũ Từ Trang) trên tờ Việt Báo :

“Giá như anh không va vấp, không gục ngã, thì anh đã thành đạt như bao bạn bè trang lứa mê văn chương chữ nghĩa một thời… Cái chết của anh như một định mệnh. Một tai nạn giao thông với một con người lầm lũi sống và yêu cuộc sống. Một cái chết của một cánh cò trắng đang bay…”

– Ủa, chớ ông Tuân Nguyễn “va vấp” vào ccc gì vậy – hả Trời?

Giúp đỡ bạn bè trong cơn hoạn nạn, thẳng thắn trình bầy quan niệm sống của mình trước mọi người là cách hành xử bị coi là “va vấp” và đáng bị bỏ tù sao? Ra tù, với “da mặt vàng úa hơi phù nề và cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu,” lúc phải ở nhờ, lúc thì sống chui rúc trong một căn phòng chỉ rộng bằng … chiếc chiếu. Xin đi làm việc thì bị khước từ vì có “thành tích là một tên phản động.” Vậy mà khi lìa đời thì được ông thi sĩ đồng nghiệp mô tả đó là “cái chết của một con cò trắng đang bay.”

– Đụ mạ, “bay” kiểu chi mà kỳ cục rứa hè?

Nếu không “đãi bôi” như vậy thì mọi người cũng chỉ dám buồn rầu, khe khẽ thở dài, ái ngại đổ thừa cho “số phận” (không may) của Tuân Nguyễn mà thôi. Ông Hà Nhật đã nhắc lại điệp khúc “mất mùa vì tại thiên tai” – theo cung cách đó – để kết luận cho bài viết (thuợng dẫn) như sau :

“Tên thật của Tuân Nguyễn là Nguyễn Tuân, ngẫu nhiên mà trùng tên với
nhà văn tài hoa bậc nhất nước ta. Có lẽ khi đặt tên cho con, các vị thân sinh của anh không hề nghĩ gì đến chuyện này, vì phải rất lâu sau khi con trai họ ra đời thì Nguyễn Tuân mới có Vang bóng một thời cho người đời ca tụng. Tránh việc trùng tên cho người ta khỏi ngộ nhận, hóa ra Tuân Nguyễn đã tự nhận mình như một sự đảo ngược của số phận: một người thì có đủ thứ vinh quang, một người thì gặp toàn nghiệt ngã.”

Cái được mệnh danh là “đủ thứ vinh quang” này, theo như chính Nguyễn Tuân xác nhận, ông gìn giữ được suốt đời là nhờ biết … sợ! Mà sợ hãi tới cỡ đó, vào thời buổi đó, nghĩ cho cùng, cũng phải (giá) thôi. Thời phải thế, thế thời phải thế.

Bỉ nhất thời dã.
Thử nhất thời dã.

Hồi đó là một thời. Bây giờ là thời thế khác. Người Việt hôm nay ăn nói và hành xử (đã) khác xưa chăng? Đ…mẹ, không dám (khác) đâu. Đọc thử poster giới thiệu Hoàng Hưng, cách đây chưa lâu, của một “nhà thơ đương đại” là biết liền chớ gì :

“Tên thật Hoàng Thụy Hưng, con một gia đình trí thức Hà Nội, có thơ đăng báo từ năm 11 tuổi… Mười tám thi đỗ vào Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội… ông đã bỏ học, tình nguyện lên Tây Bắc…Hai mươi ba tuổi, ông về dậy văn cấp ba tại Hải Phòng… Về Hà Nội … Hoàng Hưng rẽ sang một hướng khác: ông không nhìn đời toàn mầu hồng nữa, ông kết bạn với những thành phần ‘phức tạp’, và đến năm 1982, vì một lý do ‘đáng tiếc’, ông phải bước vào trại cải tạo.”

Nghe cứ y như thể Hoàng Hưng đang là một thanh niên trí thức, lý tưởng, tràn đầy nhiệt huyết (bỗng) đâm ra đổ đốn, giao du toàn với bọn đầu trộm đuôi cướp, rồi đến năm 1982 vì “một lý do đáng tiếc” không tiện nói (kiểu như móc túi hay giựt đồ và bị bắt gặp quả tang) ông phải bước vào trại cải tạo vậy!

Cái được mô tả là “thành phần phức tạp,” và “lý do đáng tiếc” – khiến Hoàng Hưng phải vào tù – được chính ông tường thuật như sau, qua RFA :

“Cái lý do trực tiếp của nó là khi tôi cầm trong tay bản thảo tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng Cầm vào năm 1982 khi tôi từ Thành Phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội nhà thơ Hoàng Cầm có tặng tôi bản thảo chép tay Về Kinh Bắc…Tôi không nghĩ là nó có vấn đề gì nhưng không ngờ họ lại bắt tôi và họ bảo tôi lưu truyền văn hóa phẩm phản động…”

Chữ “họ” trong đoạn văn thượng dẫn là một đại danh tự, dùng để chỉ (hay ám chỉ) cái tập đoàn cộng sản – những kẻ đã hành xử quyền lực một cách bất nhân và bạo ngược hơn nửa thế kỷ qua – ở Việt Nam. Bao giờ mà người dân Việt còn “kiêng”, chưa chỉ thẳng vào mặt, và đặt thẳng tên cho chúng nó (rõ ràng) như vậy thì “họ” vẫn tưởng mình là những người của “Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Muôn Năm,” và vẫn còn có thể tiếp tục tác yêu tác quái, trên đầu muôn dân trăm họ.

1 BÌNH LUẬN

  1. Sống với Việt Cộng cứ văn thơ ăn cắp là nổi tiếng. Không tin?

    Chép lại từ trang mạng của “XoaThanTuong”
    Các câu “ăn cắp” nổi tiếng của Hồ Chí Minh

    1) Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.

    Lấy của Quản Trọng. Trích từ: Vũ Thế Phan, Ai trăm năm trồng người?, 2011

    “Quản Tử tức Quản Di Ngô hay Quản Trọng là tướng quốc triều vua Tề Hoàn Công thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu, sinh trước Khổng Tử độ 200 năm. Quản Tử là tác giả của quốc sách ‘trồng người’. Sách Quản Tử (*), chương Quyền Tu, trang 53: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc; thập niên chi kế mạc như thụ mộc; chung thân chi kế mạc như thụ nhân. Nhất thu nhất hoạch giả, cốc dã. Nhất thu thập hoạch giả, mộc dã. Nhất thu bách hoạch giả, nhân dã / Kế hoạch một năm không gì hơn trồng lúa; kế koạch mười năm không gì hơn trồng cây; kế hoạch trọn đời (trăm năm) không gì bằng trồng người. Trồng một, gặt một, là lúa. Trồng một, gặt mười, là cây. Trồng một, gặt trăm, là người.”

    2) Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên

    Lấy từ “Ấu học ngũ ngôn thi”. Trích từ: Phạm Xuân Cần, Về hai câu thơ thường bị nhầm là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 2012

    “Té ra đó là một câu trích trong sách giáo khoa chữ Hán xưa “Ấu học ngũ ngôn thi”. Nhà thơ Ngô Văn Phú đã giới thiệu và dịch đăng một chương cuốn sách này trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trong đó nguyên văn chữ Hán của bốn câu thơ này như sau: “Tạc sơn thông đại hải/ Luyện thạch bổ thanh thiên/ Thế thượng vô nan sự/ Nhân tâm tự bất kiên” (鑿 山 通 大 海/ 鍊 石 補 青 天/ 世 上 無 難 事/人 心 自 不 堅). Như vậy, có thể nói Chủ Tịch Hồ Chí Minh không phải là tác giả của những câu thơ này.”

    3) Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong

    Lấy của Thanh Tịnh. Vẫn trích từ: Phạm Xuân Cần, Về hai câu thơ thường bị nhầm là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 2012

    “Bài này được nhà thơ Thanh Tịnh sáng tác năm 1948 trong cuộc vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Đó là bài Dân no thì lính cũng no. Nguyên văn:

    “Trông lên thì thấy đầy sao
    Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
    Dễ trăm lần không dân cũng chịu
    Khó vạn lần dân liệu cũng xong
    Thóc thuế mà có dân đong
    Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
    …”

    4) “bài thơ HCM tặng Trần Canh trong sách Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, tr. 101”

    Lấy của Vương Hàn. Trích từ: Trần Gia Phụng, Hồ Chí Minh: Kẻ trộm thơ, 2014

    So sánh hai bài thơ tứ tuyệt “Tặng đồng chí Trần Canh” của HCM và “Bài hát Lương Châu” của Vương Hàn, cách nhau cả hơn một ngàn năm, mỗi bài thơ chỉ có 28 chữ, mà hai bài thơ chỉ khác nhau có bảy chữ. Đó là hai chữ đầu bài thơ (“bồ đào” thay bằng “hương tân” tức rượu champagne; và năm chữ câu cuối). Còn hai câu giữa hoàn toàn giống nhau, nghĩa là hết ba phần tư (3/4) bài thơ nguyên là của bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn.

    Tặng Trần Canh Đồng Chí

    Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.

    Lương Châu Từ

    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

    5) Hai câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây / Phải chăng khổ tận, đến ngày cam lai” trong bài “Cảm ơn người tặng cam” của Hồ Chí Minh

    Lấy câu tục ngữ của dân gian và (gần như nguyên văn) câu thứ 3210 trong Kim Vân Kiều (Truyện Kiều) của Nguyễn Du. Trích từ: Hàn Lệ Nhân, Lại đọc thơ Bác, 2011

    Cảm ơn bà biếu gói cam,
    Nhận thì không đáng, từ làm sao đây!
    Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
    Phải chăng khổ tận, đến ngày cam lai.
    (HCM, “Cảm ơn người tặng cam”)

    Câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đã đến lúc phải trả lại cho dân gian Việt Nam: …

    và câu “phải chăng khổ tận, đến ngày cam lai” lại là của cụ Tố Như:

    Thương vui bởi tại lòng này,
    Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
    (Kim Vân Kiều, sđd, câu 3209-3210, trang 262)

    6) Bài thơ “Nguyên Tiêu” của Hồ Chí Minh nằm trong “100 Bài Thơ Hay Nhất Thế Kỷ 20” được công bố tại Quốc Tử Giám Hà Nội nhân ngày thơ Việt Nam 2007

    “Cắt và Dán” rồi sửa lại chút chút từ 4 bài thơ khác nhau. Trích từ: Nguyễn Tường Thụy, Ngày thơ Việt Nam, nói về bài thơ “Nguyên Tiêu”, 2015

    Có người tỉ mẩn nhặt ra, 4 câu thơ trong bài thơ 4 câu của Hồ Chí Minh đều na ná 4 câu của 4 bài khác nhau:

    Câu 1: Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên,
    trích từ bài “Ngư Ca Tử Kỳ 5” của Trương Chí Hòa

    Câu 2: Nguyệt quang như thủy thủy như thiên
    trích từ bài “Giang Lâu Thư Hoài” của Triệu Hỗ

    Câu 3: Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
    trích từ bài “Thú Nhàn” của Cao Bá Quát

    Câu 4: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
    trích từ bài “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế

    Xong người này này lại tạm ghép 4 câu của 4 bài ấy thành một bài mới:

    Tiêu Nguyên

    Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên,
    Nguyệt quang như thủy thủy như thiên
    Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

    để so sánh với bài Nguyên Tiêu của Hồ Chí Minh:

    Nguyên Tiêu

    Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
    Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
    Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
    Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

    7) Câu “Không có gì quý hơn độc lập tự do”

    là của vợ của chú ruột nhà báo Lê Phú Khải. Trích từ: Lê Phú Khải, Lời Ai Điếu, 2016

    Tôi có bà thím, vợ người chú thứ ba, quê ở Chí Chủ, Phú Thọ nơi đại gia đình tôi đi tản cư kháng chiến… Hòa bình lập lại 1954, bà theo chồng về Hà Nội. Bà tự tay thuê mướn, chặt đốn và đóng cả một bè tre nứa, gỗ,… Nhưng cộng sản đã triệt hạ buôn bán, chồng bà lại là cán bộ cao cấp ngành công an nên bà đành phải ở nhà túc thủ… Hàng ngày bà phải đi qua cầu Long Biên gánh nước gạo về nuôi lợn. Đi về hàng chục cây số rất nặng nhọc. Thấy vợ một ông cán bộ cao cấp mà phải lao động quá vất vả như thế (vì làm tự do không được cấp sổ mua gạo) ai cũng ái ngại cho bà. Nhưng bà tuyên bố: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”! Đó là cụm từ lần đầu tiên tôi nghe được trên cõi đời này từ mồm bà thím đáng kính của tôi từ ngày mới giải phóng thủ đô. Sau này đài báo ca tụng ầm ĩ khi nó được cụ Hồ nói vào những năm chống Mỹ sau này…

    8) Ngục Trung Nhật Ký (Nhật Ký Trong Tù)

    Có hai trường hợp: Một, Hồ Chí Minh là người Việt, gốc Nghệ An. Hai, Hồ Chí Minh là người Tàu, đội lốt người Việt.

    – Hồ Chí Minh là người Việt, gốc Nghệ An. Nếu như thế thời chắc chắn HCM ăn cắp cuốn Ngục Trung Nhật Ký (NTNK) của người khác. Lý do: NTNK viết bằng chữ Hán, và cuốn NTNK không đả động gì tới Việt Nam, nhưng lại yêu nước Trung Hoa.

    Trích từ: Tâm Việt, Ngục Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh? 2007.

    Tập thơ hồi ký giãi bày lòng yêu nước và ước mơ tươi đẹp cho tổ quốc …. 中華 [Trung Hoa]

    … Vì thế tác giả Ngục Trung Nhật ký là người Trung Hoa, chứ không phải là người Việt Nam thời Pháp thuộc.

    Trích từ: Phương Nam (Đỗ Nam Hải), Một vài suy nghĩ sau khi đọc lại tập thơ NHẬT KÝ TRONG TÙ, 2008.

    tâm hồn của tác giả tập thơ “Nhật Ký Trong Tù” là tâm hồn của một người Trung Hoa chứ không phải là tâm hồn của một người Việt Nam! Mà Chủ tịch Hồ Chí Minh như chúng ta đã biết thì … Ông là một người Việt Nam 100%, thì theo tôi rất khó có cơ sở để nói rằng ông là tác giả của “Nhật Ký Trong Tù” được.

    – Hồ Chí Minh là người Tàu, đội lốt người Việt gốc Nghệ An (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành,…). Trường hợp này có nhiều điểm để có thể đi đến kết luận không sợ sai lầm là HCM ăn cắp cuốn Ngục Trung Nhật Ký (NTNK) của một người Tàu khác.

    Hồ Chí Minh chuyên ăn cắp thơ của người khác không biết ngượng, các bài thơ nêu ở các mục số 4) 5) 6) ở trên chẳng hạn, nên có ăn cắp thêm cuốn NTNK nữa cũng chẳng có gì là lạ; Rồi, NTNK viết trong thời gian tù 1 năm ở Quảng Tây (1942-1943), nhưng thời gian tù ở Hồng Kông tới 2 năm (1931-1933), lâu hơn lại không có bài thơ nào!

    Ngoài ra, còn có các điểm sau được nêu lên trong bài viết của Đỗ Thông Minh, Tác giả Ngục Trung Nhật Ký là ai? 2008.

    … Hồ Chí Minh lấy sách của người ta đưa cho đàn em in, nhưng khi được hỏi không dám khẳng định là của mình. Trong khi đàn em và đám bồi bút cứ thế nhắm mắt ca tụng.

    … HCM từng kể trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” là lần ở tù này bị cùm gông, lê lết cơ mà!? Và không hề có chỗ nào viết là đã từng làm cả tập thơ trong tù Quảng Tây cả.

    … Bài 109, Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh (Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng của Tưởng Giới Thạch?

    Bài 110, Tặng Tiếu Hầu (Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác giả khuyên ghi khắc lời dạy “cần kiệm liêm chính” của Lương Khải Siêu, Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Một đảng viên Quốc Tế Cộng Sản suốt đời vì đảng mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới Mác-Lê hay Cộng Sản cả?

    … Nhân vật ông già tên “Lý” được nhắc tới trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” phải chăng là tác giả?

    … Bìa sách ghi ngày 29/8/1932-10/9/1933, lưng sách lại ghi thêm ngày 29/8/1942-10/9/1943. trên chữ “Hoàn” (完, chấm hết) có vẻ thêm vào cho phù hợp với năm tù của Hồ Chí Minh? Còn ngày tháng tù thì chưa hẳn. Một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.

    … Hai nét chữ khác nhau (phần thơ và trong sổ tay ở phần sau của HCM), chứng tỏ phần sau là phần viết thêm vào để tự nhận là của mình, tức cướp “tác quyền”.

    Và một số điểm nữa, không nêu ra ở đây, được nói tới trong bài viết của Lê Hữu Mục, về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh, 2003.

    xoathantuong tổng hợp

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên