Từ Kiều đến Nietzsche: Khủng hoảng văn học Việt

6
Ảnh manh tính minh họa

Cái tật của các học giả, nói như Nietzsche, là không viết lên được gì nếu không dựa trên trích dẫn từ sách vở. “Bọn họ quá lạnh lùng. Mong cho sét đánh ngay vào thức ăn của họ để mồm miệng chúng biết ăn món lửa,” Nietzsche viết. Thế còn nhà văn? Tính sáng tạo của nhà văn là khả năng nấu nướng những gì có sẵn thành một món ăn mới. Còn những thể loại văn chương nghèo nàn tư duy thì chỉ biết đem những vật liệu còn sống, chưa được nấu, để như vậy và chỉ bày biện thành món ăn với thật nhiều gia vị. Có lẽ đây là giá trị của văn chương bình dân và phổ thông. Nó mang phẩm chất tươi mát ở nơi kỹ thuật trình bày đơn sơ và trần trụi. Nhưng chính đó cũng là khuyết điểm lớn – những trạng thái sống sượng từ sự kiện chưa được nấu nướng và chuyển hóa bằng ngữ văn.

Tươi sống và thiếu tư tưởng

Văn hóa Việt Nam – “Văn Lang” – là một thể loại phong hóa văn chương bình dân – một quá trình dàn dựng sự thể của sự kiện nhân sinh vào một mâm cỗ ngôn ngữ, cho thêm nhiều gia vị, và không được chuyển hóa. Người ăn mâm cỗ văn chương tiếng Việt phải chấp nhận cái tươi mát và sống sượng của cuộc đời làm thực phẩm cho mình. Và dù họ có nhận thấy sự giới hạn và nghèo nàn của thức ăn sống, họ cũng không có chọn lựa nào vì con người và văn chương Việt Nam chưa bước lên tới bình diện tư tưởng để chuyển hóa sự thể sống sượng của sự đời. Người đọc văn tiếng Việt phải ngậm đắng nuốt cay mà nuốt tiếp cái phong hóa văn chương hời hợt nầy.

Giá trị tư tưởng nằm ở bình diện khái niệm và nguyên lý – tính trừu tượng của ý thức được chuyển hóa từ sự thể trần truồng. Nó như là công việc nấu nướng vốn đòi hỏi nhiệt độ cao của lửa nhằm chuyển hóa đồ ăn sống sang thức ăn chín cho con người. Ẩm thực là một quá trình văn hóa đòi hỏi chuyển hóa từ nấu nướng, dọn ăn, hành vi ăn uống và sự tiêu hóa của thức ăn khi được đưa vào miệng cho đến khi trở thành nhiệt lượng để nuôi sống cơ thể. Khi chúng ta ăn là chúng ta tiếp thu cái gì đã được chuyển hóa nhằm thúc đẩy một tiến trình tiêu hóa mới trong cơ thể.

Cũng như thế, khi chúng ta đi vào thế giới ngôn ngữ, của sách vở, cái cần thiết là tư tưởng – khi cuộc đời đã được thăng biến trên cơ sở phạm trù. Văn chương Việt Nam thiếu cái đó. Nó cứ dọn những bữa ăn sống và tươi và đổ lên thật nhiều gia vị. Ðối với trái cây hay sà lách thì được. Nhưng lịch sử và con người Việt Nam là thịt, là cá, là gạo đang phơi trần trong khí hậu nhiệt đới. Nếu không nấu, không chuyển hóa, người dùng bữa sẽ dễ bị bội thực và ngộ độc. Văn hóa Việt Nam đang bị bội thực và ngộ độc vì khả năng tri thức dân tộc chỉ dừng lại ở biên giới văn chương – thể loại văn chương thuần diễn tả.

Hãy nhìn Việt Nam gần suốt thế kỷ qua cho đến hôm nay. Lâu lắm mới có một vài tác giả viết về tư tưởng, nhưng hoàn toàn thiếu sáng tạo, và rồi bị bỏ quên. Trước 1975, ở ngoài Bắc thì chỉ có học thuyết Marx-Lenin, vốn không thể gọi là tư tưởng vì không có tự do tư duy; còn trong Nam thì một chút ít triết học hiện sinh từ Âu Châu nhiễm mùi văn chương được bày biện vụng về trên các mâm cỗ với thức ăn chưa được nấu, sống sượng và lỏng lẻo.

Cho đến giờ này, trí thức Việt hầu như chỉ làm được ba chuyện: Làm thơ, viết truyện ngắn dạng mô tả, và dịch sách ngoại ngữ. Đây không những chỉ là một giai tầng tri thức hời hợt, thiếu chiều sâu – mà còn thiếu sáng tạo trầm trọng. Tất cả tạo nên một nền văn hóa chữ nghĩa thuần trích mượn – a throughoutly derivative intellectual culture.

Chúng ta phải trân trọng và cám ơn văn nghệ sĩ Việt. Tuy nhiên, vấn đề là ở ngay cả thượng tầng trí thức Việt Nam, họ còn thiếu sáng tạo trầm trọng.

Câu chuyện mãi vẫn còn như thế – khi cái phong hóa văn chương vay mượn toàn diện này trở nên một hiện tượng “văn học.” Nhìn đâu cũng thấy “văn học” – kể cả những cái gì không liên quan gì đến văn học. Phong trào văn học và thi ca nầy trở thành chất men chính cho thế giới tư duy Việt Nam. Muốn nói một đều gì, người Việt đều nói qua thể dạng văn chương và thi ca để rồi nhân danh chúng là văn học. Các tạp chí ở hải ngoại, kể cả các mạng điện tử, đều cũng chỉ chia chung một màn kịch – và trò chơi – văn học. Cả một cộng đồng ngôn ngữ tiếng Việt bị hút hồn trong cơn say thi ca và văn chương nhẹ cân và hời hợt nầy.

Một tầm nhìn văn chương mới

Nói như thế có bất công chăng! Đến đây chắc có người phản biện rằng, văn chương là gì nếu không là những chuyện kể. Nó khác với triết học hay tư tưởng – vì thơ văn khai sáng cuộc đời từ một góc độ tiếp cận khác. Đòi hỏi thơ văn phải như là những luận đề triết học hay lịch sử, văn hóa là lạc đề – và chưa nắm được yếu tính văn học. Có phải văn chương mang mầu sắc triết học chỉ là một hình thức làm dáng!

Xin trả lời: Vâng, tùy tầm nhìn. Nếu ta muốn văn chương Việt nằm mãi ở trình độ diễn tả sự kiện như những chuyện kể cho giới bình dân thì không có gì để bàn đến. Nhưng nếu ta muốn nâng văn Việt lên tầng cao mới thì phải nghiêm chỉnh nhìn kỹ vấn đề. Hãy đọc văn – xin được thả vài tên quen thuộc – Dostoevsky hay Kafka, Camus hay Hess, chẳng hạn, thì sẽ thấy được khiếm khuyết của văn học Việt. Chỉ cần đọc một đoạn trong “Ghi chú dưới tầng hầm” (Dostoevsky) hay “Huyền thoại Sisyphus” (Camus) để thấy văn chương người ta đã được nấu nướng cẩn trọng như thế nào. Có thể cùng một câu chuyện, nhưng suy tư của các nhà văn lớn luôn bao phủ hay gợi ý tinh tế một tầng khái niệm mang giá trị hoàn vũ về con người, thực tại thế gian, và sử tính.

Còn văn chương Việt thì chỉ nằm ở tầm diễn tả sự thể thế gian và dừng lại ở đó. Có phải nhà văn Việt Nam mang tầm nhìn giới hạn, thiếu ý chí và khả năng sáng tạo, hay sự non yếu của tiếng Việt đang giam cầm khả thể tầm cao? Có thể rằng, cổ thụ dưới thung lũng thấp không thể sánh chiều cao với đồng chủng ở trên đồi – khi sàn văn hóa của dân ta còn quá thấp, nấc thang tiến hóa tâm thức đang ở Thời quán thiếu niên, thì văn học không thể mặc áo vượt qua đầu được. Sự thể khiếm khuyết của văn học Việt Nam có phải chăng nó là một định mệnh văn hóa.

Với khiếm khuyết văn chương như thế, và là một hệ quả từ đó, con người trí thức Việt ở khắp nơi, mang một năng ý lạ – sở thích làm báo. Báo chí là một thứ văn chương, tức là, dọn các mâm cỗ chỉ có diễn tả sự kiện còn sống sượng. Một phần nào đó thì văn thơ là một cái thói quen, một con lộ lập danh, lập thân, xây dựng căn cước cá nhân. Sở thích làm báo cũng như ước muốn viết văn, làm thơ – tham dự vào thời sự hằng ngày. Ðây là cái thói quen thích ăn nhậu ở những vỉa hè ồn ào, náo nhiệt mà trong đó, con người với cơn say tràn ngập cảm giác khích động với cái đang là. Ði vào các làng xóm văn chương hải ngoại cũng như trong nước, khi các anh, các chị nhà văn, nhà thơ gặp nhau là chỉ có chiếu tiệc ồn ào. Và phong hóa đó được thể hiện trên các tờ báo, các tạp chí văn chương – với đầy thức ăn chưa được nấu. Ngày nay thì còn nguy hơn với các trang báo điện tử trên mạng. Người ta suy nghĩ cả mười năm mới viết được một cuốn sách, còn nhà văn Việt Nam thì chỉ viết theo tùy hứng, thành ra những con chữ phải chạy đèn cho nội dung chuyên chở. Ngữ văn của họ trần truồng, nhẹ hời, không có gì để suy ngẫm hay phiên giải, mà chỉ cần đọc qua là thấy rõ hết tất cả nội dung biểu đạt.

Lấy hài ước bình dân làm vui

Nhưng dân Việt cả ba miền, viết văn, mần thơ, hay là làm báo, đều cũng chỉ là một loại – món nợ văn chương. Dân Bắc bây giờ bị đồng hóa bởi dân Nam qua cái bệnh nhậu, bệnh làm báo. Không những chỉ ở trong Nam, mà là cả nước, đi đâu cũng là những bàn nhậu ồn ào, mà ở đó con người hành động theo khuynh hướng hài ước, bình dân quá mức, thiếu cử chỉ nghiêm chỉnh, trang trọng. Ở hải ngoại cũng thế, khi dân văn nghệ ngồi lại là biến thành bàn nhậu. Nơi đó, thức ăn tràn ngập, mất mỹ quan – cũng như ngôn ngữ tương tác của họ. Không thấy hội thảo nghiêm chỉnh, không có bài nói chuyện của những khách được mời. Các xóm văn chương hải ngoại, cũng như trong nước, lấy sinh hoạt nhậu nhẹt làm vui. Vì vậy, ngay cả ở tầm mức giao tiếp xã hội, các cộng đồng văn chương Việt cũng vẫn ù lỳ với phong hóa bình dân. Vậy ta mong chờ gì ở bình diện tư tưởng.

Khi văn học muốn lên cao thì các nhà lý luận trao đổi theo phong trào trang điểm cho chữ nghĩa. Những lý thuyết thời thượng như “giải cấu trúc” hay “hậu hiện đại” được đem ra làm phương tiện nhằm lấy cái thấp để giải thích cái cao. Nhìn đâu họ cũng lấy chuyện dục tính, quyền lợi kinh tế, quyền lực là cái chính để giải thích cho sự việc. Từ trong các lý thuyết hời hợt đó, thế gian và con người không còn giá trị tinh thần, không còn mang tầm nhìn hiện hữu trên bình diện khái niệm và nguyên lý, không có trực giác luân thường cho ý nghĩa cuộc đời. Dù có muốn vươn lên, nhưng với khung tham chiếu nhẹ cân như thế, nên sự sành điệu của văn nghệ sĩ Việt Nam ngày nay là của một thể loại văn chương bình dân như là hoạt cảnh đời sống vỉa hè phố thị.

Say đắm với chính mình

Có lần, một nhà văn tâm sự rằng khi bài của mình được đăng lên báo hay tạp chí, ông chỉ đọc say mê bài mình viết – và chỉ bài của mình, dù khi thảo, đã đọc nó cả chục lần. Cái thú đọc bài mình viết trên báo cũng giống như là một cậu thiếu niên mặc áo đẹp nhìn vào gương. Không có gì là mới hay lạ cho đối tượng cả. Nó chỉ là cái ta ngã mạn được xoa nắn, tái dựng bởi chính ta. Ðó là cái thú văn chương trong vòng lẩn quẩn – lấy cái hiện tại từ sự kiện quen thuộc, bày biện nó lại qua một kiểu cách ngôn ngữ khác, để chiêm ngưỡng lần nữa. Trong thú vui này, con người bị chìm đắm vào cái ta, không bước lên hay thoát ra ngoài vòng cuộc sống bằng tinh thần hay tư tưởng. Văn chương thiếu tinh thần và tư tưởng không đánh thức được ai, nó chỉ ru ngủ thiên hạ – và làm cho mình bị say đắm với chính mình.

Trở lại để trích dẫn Nietzsche lần nữa: “Con gà mà đẻ nhiều thì trứng sẽ nhỏ đi.” Cái thiếu của văn chương Việt Nam là nhiều chữ quá mà không nói lên được điều gì. Văn chương – qua dạng truyện ngắn thuần mô tả – làm cho người đọc bị kiệt sức. Một múi chanh của sự thể nhân sinh – phần lớn là số vốn cuộc đời bản thân – khi vào trong tay của nhà văn Việt thì bị vắt đến nát nhừ nhằm rút ra thêm được chút tàn lực chất chua, chất chát. Như những tập tự truyện gần giống nhau và đồng bản chất kể lễ, nhà văn Việt nói tới, nói lui thì cũng chỉ lập lại một âm điệu đã nhàm – cái âm điệu bi đát, ai oán, đầy tiêu cực và thiếu tinh thần. Cuối cùng họ chỉ lập lại chính mình.

Vẫn chỉ là những chùm cước chú cho Kiều

Đây có lẽ là gia sản chính từ Truyện Kiều của Nguyễn Du – văn chương chỉ diễn tả được bi kịch cá nhân trong hoàn cảnh – situational tragedy – chứ không khai phá được một tầng nhân cách trên cơ sở ý chí – the tragic consequences of the individual Will. Tác giả Việt bắt buộc từng nhân vật văn chương phải mang cho mình một số phận nạn nhân, hoàn toàn thụ động, bất lực. Thế gian chỉ là một bóng tối bao trùm mà ta không thể khai sáng, không muốn thắp một ngọn nến xua tan màn vô minh. Thực tại như là một con quỷ xé nát cuộc đời mà ta chỉ còn van xin ân huệ.

Từ đó, hầu hết văn chương tiếng Việt – và sau này di cư qua Mỹ, Pháp, văn tiếng Anh, Pháp bởi người gốc Việt – vẫn chỉ là những chùm cước chú cho Truyện Kiều. Từ trong quặng mỏ chứa thuần các lớp thân phận, ta cứ thấy hoài một chuyện – những biến hóa chữ nghĩa được mãi khai thác từ cái cuốc mòn văn chương nhà ta. Văn chương Việt – Việt hay Anh, Pháp ngữ – phần lớn chỉ là những tuyển tập thú tội. Ở đó, bi đát không vươn lên được tầm bi tráng; số phận cá nhân chỉ là một lát mỏng cắt ngang khúc cây từ hoàn cảnh tập thể dân tộc trong sự trống vắng về ý chí tác hành bằng ý thức sử tính và thời đại.

Đọc văn Việt thì như là nghe vọng cổ, hay nhạc bolero – cũng như cha ông ta đọc Kiều. Nó chỉ làm cho ý chí hành động bị tê liệt. Nói hơi đại ngôn một tí rằng, thể loại văn chương, thi phú nầy chính là nguồn gốc sâu xa cho hầu hết những thảm kịch lịch sử Việt Nam cho đến hôm nay – một lịch sử chỉ hoàn toàn chứa đựng những năng động thuần tình cờ, ngẫu nhiên – mà không mang một tinh yếu ý chí cá thể. Trong khi thi ca Tây phương biến bi kịch cá nhân thành là một nguồn kích khởi ý chí hành động; thì ngược lại, văn thơ Việt nhấn chìm người đọc vào số phận bi đát của nhân vật. Càng đọc thi ca Việt ta càng bị đắm mình vào cái đập nước ngôn từ do chính chúng ta tự kiến lập lên.

Nietzsche và niềm cứu rỗi mới

Trong tác phẩm kinh điển “Sự suy tàn của văn minh Tây phương” Oswald Spengler so sánh thi kịch Hy Lạp với Tây Âu, rằng, “Thiết yếu tính bi kịch Tây Âu là hành động tối đa, của Hy Lạp là thụ động đến cùng…Chủ đề (theme) thi ca Hy lạp không phải là của một tác nhân Hành động mang ý chí dâng trào muốn phá vỡ bối cảnh khách quan hay là chinh phục con quỷ ác ôn ngay trong lồng ngực mình – nhưng mà là của một Nạn nhân bất lực không có ý chí khi đời sống bị hủy hoại bởi hoàn cảnh… Cái điên loạn của Vua Lear (Shakespeare) phát xuất từ hành động bi tráng của ông ta, trong khi cơn điên của Ajax (Sophocles) thì đã bị bối cảnh thị quốc Athens tạo tác ngay trước khi bi kịch bắt đầu.” Một đằng, bi kịch con người Hy Lạp là nạn nhân hoàn cảnh, trong khi ở Tây Âu là từ khí chất và ý chí cá nhân. Tức là con quỷ ác ôn đối với Tây Âu nằm trong lồng ngực, đối với Hy Lạp lại là thế gian quanh ta.

Có thể nói theo ở đây rằng, phải chăng tinh thần văn thơ Việt cho đến hôm nay – chỉ ở trên bình diện luân thường và bản sắc ý chí mà thôi – một gia sản chính thống từ Truyện Kiều ở nơi chiều kích thụ động trước thế gian, tức là, bản sắc nội dung bất lực và chấp nhận số phận khổ đau – the will-less suffering – vẫn còn nằm ngủ quên trong Thời quán Thượng cổ Hy Lạp từ hơn hai ngàn năm trước!

Từ “Phận đành chi dám kêu oan”(Kiều) đến “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình” (Nguyễn Huy Thiệp) ta sẽ thấy rằng: Cái ác, cái xấu đều ở bên ngoài ta, là từ xã hội, nơi tha nhân. Khi sự yếu đuối ý chí được lấy làm biện minh cho thụ động trong oán hờn liệt kháng thì thơ văn Việt chính là một lời nguyền tự đến – a self-fulfilling prophesy.

Rất có thế vì thế mà ở Việt Nam hiện nay phong trào dịch và đọc Nietzsche – với những khẩu hiệu tung hô mẫu người “siêu nhân,” “ý chí quyền lực,” “vượt qua thiện-ác,” “phủ quyết tâm thức nô lệ,” “lên án tinh thần bầy đàn” – đang khá thịnh hành. Nietzsche viết, “Cuộc đời không chỉ là sự đáp ứng nội tâm theo nhu cầu ngoại thân, nhưng mà là của Ý chí Quyền lực, phát khởi từ trong ta nhằm chinh phục và làm chủ nhiều hơn những gì ngoại cảnh.” Đó có thể là câu sớ mới cho độc giả văn học hiện nay.

Hiện tượng nửa triết nửa văn với Nietzsche nầy chính là một nỗ lực từ vô thức đi tìm một năng lực Ý chí mới – khi văn học Việt đang thiếu những món ăn tinh thần cho một dân tộc đang muốn vươn ra khỏi tình trạng độc tài, thiếu tự do hiện nay.

N.H.L

6 BÌNH LUẬN

  1. Hồi Tưỡng NGỤY năm xưa

    Xưa kia súng thiet thì quăng chạy
    Nón sắt bình tong liệng lien hoàn
    Điện đài ich’ gi cho buổi ấy
    Tẩu Vi thượng sách, xưa đả bày

    Ngu chi ôm súng, nằm co cụm
    Phơi thây chiến địa, đứa nào hay
    Thoi thì thien hạ sao ta vậy
    Sử sách muôn đời chịu nhục chung
    Trong khi thien hạ đang hèn cả
    Dại gì mà….gan, mot minh ta

    Thẹo(Thiẹu) còn phóc chạy , huống gì ta
    Lính lac’một thời, ôi bi nhục
    Kết cuộc chân trần, không giày vớ
    Rằn ri áo lính, quần sáu túi
    Cởi tuốt cho nhẹ, tênh cuộc đời
    Tà lỏn ta cứ hòa vào dân
    Thế là Viet Cộng tưởng ta hiền
    Thoát nạn ta tìm ra biển cả

    Nước MẼO đàn anh, ta huớng tới
    CaLi chiến địa, ta hùng hổ
    Dựng cờ, súng giã ta trở lại
    Súng nhựa lăm le ta ….GIET CỘNG
    30 thang 4 đến mọi mùa
    Ta cứ diễn hài, Cộng sợ…RUN.

    Gủi các lảo NGỤY TAN DƯ 3/// đang ngày đêm cay cú, ganh tị, nguyền rủa và GIAT SẬP CONG SẢN bang mồm kháp thé giói.

  2. Thuý Kiều Thời Nay

    Chẳng ngờ gã Nguyễn tất Thành,
    Vốn là một đứa phong tình đã quen.
    Thế gian chạy mặt khốn hèn,
    Hết thời lại kiếm ăn miền quê cha.
    Làng bên có lão chệt Hoa,
    Một trùm ma giáo về già hết thiêng.
    Số trời đưa đẩy mà nên,
    Gian nhân ác đảng kết duyên Tấn Tần.
    Chung lưng thành lập đảng đoàn,
    Trưng cờ liềm búa bịp dân hại đời.
    Săn lùng khắp chốn mọi nơi,
    Từ Âu sang Á tìm người đồng trinh.
    Rủi thay cô gái Rồng Tiên,
    Đoạn trường ngang trái vô duyên chọn nàng.
    Xót nàng một mảnh hồng nhan,
    Sa cơ lỡ bước bán thân cứu nhà.
    Gặp tay bợm chúa điếm già,
    Sính nghi rẻ giá làm quà Đệ Tam.
    Mừng thầm: “Cô gái Việt Nam,
    Càng nhìn vẻ ngọc, càng ham khúc vàng.
    Một trang quốc sắc thiên hương,
    Ta đem dâng nạp đại vương của mình.”
    Đại vương tên thật Lê nin,
    Từ lâu mắc bệnh phong tình giang mai.
    Cha sinh của cái quái thai,
    Mác Lê chủ nghĩa oan sai hận thù.
    Thế rồi một sớm mùa thu,
    Oán tranh u ám mịt mù trần gian.
    Có người con gái Việt Nam,
    Bị đem dâng cống tế chằng Liên xô.
    Đổi về cái đảng Cộng nô,
    Độc quyền thống trị cơ đồ nghìn năm.
    Nhưng mà mưu sự tại nhân,
    Liên xô sụp đổ, Đệ Tam tiêu tùng.
    Búa liềm gãy nát đi đong,
    Trơ ra bản mặt cháu con tặc Hồ.
    Hóa thân đảng cướp côn đồ,
    Cùng đường làm kiếp gia nô tôi đòi
    Lôi theo dân tộc giống nòi
    Về thời Bắc thuộc xa xôi thuở nào…

    Đời em rồi sẽ về đâu?
    Việt Nam yêu dấu- tình đầu của tôi!

    https://fdfvn.wordpress.com

  3. Hơn nửa thế kỷ trước JP Sartre đã nói đứng trước một đứa trẻ cần bánh mì thì tác phẩm của ông vứt vào thùng rác! VN thì “có thực mới vực được đạo” cũng tương tự. Dân tộc phải đối phó với giặc phương Bắc, phương Tây. Đã thế cộng sản còn gây chiến tranh không những máu đổ, nghèo đói mà nguy hiểm nhứt là sự ngờ vực, tố cáo nhau. Do đó ưu tiên của người Việt là đối phó để tồn tại.

    Và lo lắng để tồn tại đương nhiên chiếm lĩnh tất cả sức lực thì đầu óc nào khai phóng để nói đến tư tưởng lớn trong văn chương ngoài chuyện kể?

    Khi nạn nhân gặp nhau thì chuyện kể vừa là để giải tỏa, vừa để san sẻ. Những chuyện như thế tự nó đi vào văn chương. “Trăm năm trăm cõi người ta” thì Kiều là biểu trưng của chuyện kể về lịch sử giai đoạn đó. Mãi đến bây giờ người Việt đã thoát ra được “thân phận Kiều” chưa?

    Phương Tây trái lại. Vật chất thừa mứa, con người được hoàn toàn tự do. Chính sự tự do giải phóng tư duy. Có tư duy thì có khám phá. Sự khám phá giúp họ đi trước thời đại. Vì thế con chữ của họ mang theo tư tưởng lớn.

    Hemingway hoàn toàn được tự do thực hiện tham vọng nhưng khi tưởng chừng đạt được thì trở thành con số zero (The old man and the sea) Để rồi cuối cùng cũng là con số zero tròn trĩnh, ông tự sát. Nhưng tác phẩm thì tồn tại.

    Sự tồn tại của nó là tư tưởng.

    Chừng cả 100 năm sau, thời hậu cộng sản, khi người Việt thực sự có tự do như phương Tây thì mới nay ra.

  4. Sao lại gọi là khủng hoảng văn học việt? Hay là chế độ cộng sản Việt Nam đã làm thế.

    Tôi đọc văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, viết trước 30 tháng tư 1975 thấy có rất nhiều triết lý.

    Văn học Việt rất đẹp và đầy tình người.

    Ví dụ: Lòng Trần, Nguyễn Thị Thụy Vũ từ tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, nxb Sóng, Sàigòn, 1974.

    Xin phép ghi ít đoạn cuối:

    Ni cô hoàn toàn quên mất cái đời sống hiện tại ở trong chùa, quên cả mấy mươi năm tu hành khổ hạnh. Bà rơi trong một ý thức mù mờ chỉ có hình bóng muỗng nước mắm bằng sứ trắng chứa một thứ nước vàng và trong suốt như nước trà. Kê miệng mà nếm thử thì biết. Ni cô Diệu Tâm co rúm lại, thở hổn hển. Ba tiếng muỗng nước mắm như ba nhát búa đập vào đầu óc bà làm bà lảo đảo.

    Ngoài hậu liêu, hình như trời đã chiều. Mùi thuốc bắc sắc trong siêu ngai ngái bay lên làm bà có cảm tưởng mình sắp nghẹt thở.
    Bà phải uống một muỗng nước mắm. Ngày mai dầu có phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc rằng dầu đọc kinh cứu khổ cứu nạn với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chưa chắc mầu nhiệm bằng một muỗng nước mắm. Nước mắm sẽ là một món thuốc tiên làm cho cây khô trổ bông. Cố gắng lấy hết tàn hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm cho bà một muỗng nước mắm. Tất cả những người có mặt bên giường đều ngạc nhiên lẫn hốt hoảng.

    Diệu Tâm lập đi lập lại mấy lần:
    – Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.

    Tiếng kêu gọi như một lời van vỉ, thê thảm. Hai tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần tách trà ướp sen kề gần miệng. Ni cô khép chặt môi, lắc đầu phản đối:
    – Tôi chỉ cần uống một chút nước mắm cho mặn môi.
    Nói xong ni cô dìm hồn vào trong cơn đồng thiếp hai cánh tay còn xòe ra quờ quạng van xin.

    Cô em họ bước ra trai phòng thỉ thầm:
    – Rõ là ma đưa lối, quỉ dẫn đường. Hồi nào tới giờ chỉ ăn chay lạt, đến lúc sắp chết lại đòi uống nước mắm. Tôi nhất định chống lại lời ma quỉ xúi biểu, xui khiến chỉ phạm trai giới. Thà để cho chỉ chết mà không mang tội với Trời Phật và không uổng công tu khổ hạnh hai mươi mấy năm nay.

    Nói đoạn bà xuống trú phòng ngồi nói chuyện áp phe với cô cháu dâu, hoặc những thành quả bà đã thu đoạt được kể từ ngày bà bước chân vào đời. Giọng bà oang oang uốn éo và những tràng cười nói xôn xao vọng lên trên chánh điện. Ông yết ma với đôi mắt nhắm lại và nét mặt phẳng phiu dễ dãi thường nhật nhuốm một chút lo âu. Không khí nặng nề trùm xuống, nghẹt thở. Tiếng hét từ trai phòng vang lên. Ông lẹ chân tông cửa vào vừa lúc chú tiểu định bước ra, vẻ mặt còn hốt hoảng. Tất cả đứng im lặng quanh giường chờ đợi phút nghiêm trọng của ni cô trong khi cô đang vật vã từng đợt với tử thần. Tiếng nói bà vụt sang sảng như lúc còn ở trên sân khấu. Giọng nói trong trẻo tỉnh táo, nhưng đôi mắt bà vẫn nhắm nghiền:

    – Tôi mới biết thương mình mấy năm mình khổ công theo đuổi tôi, mình đặt tuồng hát cho tôi hát.
    – Con ráng học cho đỗ đạt làm quan nghe con cưng của má.
    – Tôi chỉ thích sắm vai Ðoàn Hồng Ngọc hơn làm Phàn Lê Huê. Mình thích tôi diễn vai nào nhất?
    – Bớ này Tiết Giao! Ô này bạc tình lang! Mặt chàng đẹp trai mà làm chi? Lời chàng ngọt ngào mà làm chi Cổ thiếp ngày nay mất ngọc, thân thiếp bơ vơ.

    Cả một quá khứ trôi nhanh lên ký ức bà rõ rệt và nhanh như một đoạn phim quay hết tốc lực của nó. Bà độc thoại từ quãng đời sân khấu đến quãng đời làm vợ ông phú hộ Thọ. Giọng bà sang sảng vụt dừng lại và dưới ánh đèn hiu hắt, ni cô mở trừng trừng đôi mắt trắng nhợt như cố thu nhận hình ảnh sau cùng của đời sống và ni cô quờ quạng hai bàn tay trơ xương với lời van vỉ đứt nối:
    – Hãy cứu tôi, cho tôi uống một muỗng nước mắm thôi.

    Cô cháu dâu nhìn bà em họ:
    – Mợ ơi! Mợ nhờ sư sãi đọc kinh trừ tà nghen. Cần nhứt là canh giữ đừng cho ai đem nước mắm lại.

    Bà em họ tức mình:
    – Ðể tôi đi đọc kinh cứu khổ. Hồi xưa Phật Thích Ca gần đắc đạo thì ma vương tới phá. Còn cái chị này sắp về Tây Phương tới nơi mà cũng chưa yên thân.

  5. Lần đầu tiên tôi ráng coi cái triết lý của t/g Nguyễn Hữu Liêm. Rất khó đọc. Tôi thích triết gia Kim Định với Triết Việt. Triết lý an vi. Sao lại gọi là khủng hoảng văn học việt? Với triết lý an vi.

    Đọc Kim Định, tôi không hiểu nhiều nhưng cảm thấy đầy lòng yêu nước và tin vào tính nhân bản của người Việt Nam. Và những triết lý bình dị như những câu ca dao:

    Con mèo mà trèo cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. Chú chuột đi chợ đường xa. Mua mắm mua muối giỗ cha cpn mèo.

    Triết Gia Lương Kim Định (1914-1997)

    Xin trích một ít từ Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc – Kim Định

    Xin nói ngay rằng hiện thế giới đang đi tìm một lối phân chia tài sản kiểu quân phân như vậy nhưng chưa thành công vì chưa đạt được nền tảng triết. Triết còn đang vướng chân hoặc ở trong Hữu (tư bản) hoặc trong Vô (cộng sản). Nếu thế giới đã tìm ra nền triết lý an vi trước đây dăm chục năm thì nứơc ta chắc đã không bị tai họa rơi vào gọng kìm giữa cộng sản và tư bản.

    Trở lại với nghĩa của triết lý an vi thì phải hiểu là nó không đặt quan trọng vào đối tượng, mặc dầu nhận có đối tượng tức khác với Hữu vi đặt quan trọng vào đối tượng đến độ bị đối tượng sai xử. Nó cũng khác với vôvi quá sợ đối tượng nên rút hẳn khỏi đối tượng để đi vào thái hư, hậu quả là rơi vào nạn “trầm không u tịch” không dùng được cho đời sống mới.

    An vi nhận đối tượng nên có làm nhưng quan trọng lại đặt vào tác động của con người. Hậu quả là tránh được tai họa bị vật đích hóa, nên vẫn giữ được nhân chủ tính của mình. Câu nói của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học khi lên đoạn đầu đài đã phản chiếu triết lý An vi: “Không thành công thì thành nhân”. Thành công chỉ là đối tượng không bao giờ để nó lấn át thành nhân nên nhân vẫn là chủ, kêu là nhân chủ.

    Đó là ý nghĩa thông thường, còn chính ra thì An vi bao hàm ý nghĩa thâm sâu về tâm linh không thể gói gọn vào vài trang giấy, chỉ xin nhắc đến biểu tượng của nó là Thánh Dóng. Giặc đến nhà thì tận tình chống đánh, nhưng giặc dẹp xong thì lên núi Sóc Sơn ở miền An Việt mà hóa. An Việt là quê hương của An vi, tượng trưng cho tâm thức an nhiên tự tại dành cho những ai cố trèo lên đỉnh Sóc Sơn nọ.

    Thần vương lên ngự dậm chân
    Qua ngàn An Việt cõi gần Vệ Linh.
    Giơ roi dựng ngựa dư kinh
    Vân cù thẳng bước thiên đỉnh tới nơi.
    (Thiên nam ngũ lục)

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên