S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vĩnh Biệt Sơn Nam (11/12/1926 – 13/08/2008) 

8

Trong cuốn Một Mảnh Tình Riêng, do nhà Văn Nghệ (VN) xuất bản năm 2000, Sơn Nam tâm sự:

“Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi cây số đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng qua hai con sông đầy sóng gió… Lâu năm lắm mẹ tôi với về quê thăm xứ một lần, tình trạng này tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn ‘Gả Thiếp Về Rừng’… Qua sông Cái Bé thì dễ, nhưng gian nan nhất là qua sông Cái Lớn.”

Muốn biết chuyện làm dâu nơi xa, hồi đầu thế kỷ trước, gian nan và khó khăn ra sao, xin đọc lại vài đoạn (chính) trong truyện ngắn này của Sơn Nam:

“Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 … tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.
Cô Út về làm dâu đất Cạnh Đền.
Hai năm qua.
Ba năm qua…
Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ… sổ sữa dễ thương.
Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.
Hai ông bà quá đỗi vui mừng.
Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?
Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông:
– Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết… Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không?
“Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em:
Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?

Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.
Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông!
Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái:
– Phải chỗ cây mù u này không? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ ở đâu đây.
Chị vợ đáp:
– Không chừng… Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.
Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại:
– Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cầu khỉ, đằng kia kìa, họa may…
Ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn:
– Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè…Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy! Ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt:
– Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.
Bà Cả mừng quýnh:
– Úy! Bộ con Út đẻ năm một sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!
Khách trả lời:
– Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô Út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.
– Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ “đẻ nhiều” quá vậy?
Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói:
– Dạ ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ “chồng con cái rút vô mùng… nói chuyện”. Ít ai đi đâu.
Ai nấy phá lên cười to. Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng ‘muỗi kêu như sáo thổi’ ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.
Để đánh trống lảng, ông nói:
– Ừ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.
Bà Cả nóng ruột:
– Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt?
Khách trả lời:
– Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xa. Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.
Bà thở dài, nói như rên siết:

– Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi! Hồi đó ông cãi tôi…

Ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc kề bên gốc.

Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu- và cũng là lần chót – khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận:
– Ờ… ở dưới nó có lập vườn chưa? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về giùm cho vợ chống con Út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
Phật Trời thiêng liêng xin phù hộ chứng giám! Từ bao nhiêu thế kỷ rồi, trên đất nước mình luống chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út. Ðể cho nước mạnh dân còn” (*).
Truyện “Gả Thiếp Về Rừng” lấy bối cảnh rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, vào khoảng năm 1939 – 40, khi tôi chưa ra đời. Ba mươi năm sau, lúc tôi đã đủ lớn để đọc và yêu thích Sơn Nam thì ghe thuyền gắn máy (đuôi tôm) đã chạy dọc ngang tá lả khắp sông rạch miền Nam.
Thế hệ của chúng tôi khó mà hiểu được nỗi “gian truân” của một người con gái lấy chồng xa nhà (cỡ) … năm mươi cây số! Dù vậy, tôi vẫn cứ mến thương hết sức cái tình của Sơn Nam dành cho lớp người tiên phong, đi khai khẩn miền cực Nam của quê hương.
Cùng với Sơn Nam, nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng ghi lại nhiều tình cảm sâu đậm của mình đối với những lưu dân. Trong truyện ngắn Rừng Mắm của ông, có đoạn đọc mà muốn ứa nước mắt:
“Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
Ông với lại tía của con là cây mắm, chân giẫm trong bùn. Ðời con là tràm, chân vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xồi, mít, dừa, cau.
Ðời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng”.
Đã bao nhiêu đời tràm, bao nhiêu đời mắm ngã rạp, bao nhiêu thế hệ phải chịu cảnh sinh ly như ông Cả, như cô Út … nhưng quê hương mỗi lúc một lụn bại hơn, chứ không giàu mạnh thêm – như kỳ vọng của Sơn Nam hay Bình Nguyên Lộc. Và vì nghèo đói, cảnh chia ly xẩy ra mỗi ngày một nhiều.

“Hiện nay, ở Nam Hàn, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo:‘Người già, người muốn tái hôn, người khuyết tật đều có thể kết hôn với những trinh nữ xinh đẹp ở Việt Nam … Thậm chí những quảng cáo này còn liệt kê ưu điểm của con gái VN như ‘xuất giá tòng phu’, ‘tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên đến bốn đời’, ‘dáng người đẹp nhất thế giới’, ‘giữ gìn trinh tiết và chung thủy với chồng” (Bán tuần báo Việt Luận, số 2063, phát hành từ Sydney ngày 28/04/2006).
Chuyện “lấy chồng xa” của phụ nữ VN đã trở thành kỹ nghệ, ở mức “đại trà” – theo như tin của nguyệt san Khởi Hành, số 134, phát hành từ California, tháng 4 năm 2006:
“Cảnh sát Cam Bốt mới khám phá một tổ chức bán các bé gái Việt Nam tại một khu phố ở Nam Vang. Các em cho biết đã được chở từ quê nhà vùng nông thôn miền Nam qua biên giới trong những thùng sắt dùng trở hàng xuất cảng”.
Những chuyện tủi nhục xót xa như thế đã xẩy ra (thường xuyên) từ mấy thập niên qua. Trong thời gian này, Sơn Nam vẫn cặm cụi cầm bút và vẫn in ấn đều đều. Tác phẩm mới nhất của nhà văn, có tên là Bình An, tập cuối trong bộ hồi ký của ông, và được giới thiệu là cuốn sách đề cập đến những biến đổi lớn lao của Sài Gòn kể từ ngày giải phóng miền Nam 30/04/75 đến nay…. Hồi ký Sơn Nam không chỉ là chuyện kể về cuộc đời của một con người mà còn là chuyện kể về một giai đoạn lịch sử của vùng đất Nam Bộ.

Dù không phải là thầy bói, tôi vẫn biết chắc rằng, trong cả bốn tập hồi ký của Sơn Nam sẽ không có một dòng chữ nào – nửa dòng cũng không – viết về những em bé Việt Nam bị “gả” đi xa, “trong những thùng sắt dùng chở đồ xuất cảng” từ vùng đất Nam Bộ.
Tập Hương Rừng Cà Mau, trong đó có truyện “Gả Thiếp Về Rừng,” được mở đầu bằng một bài thơ của Sơn Nam, có đoạn như sau:

Trong khói sông mênh mông,
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Ðiệu thơ Lục Vân Tiên
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả

Cái gì đã giết chết tinh thần “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” và quan niệm sống “lộ kiến bất bình vung đao bạt tụy” – của Lục Vân Tiên – trong con người Nam Bộ của Sơn Nam? Ở tuổi 80, ông còn ngại gì nữa mà không (dám) nói lên đôi lời phải/quấy với bọn giặc cướp – đang tụ họp ở làng Ba Đình, Hà Nội – trước khi nhắm mắt?
Câu trả lời có thể tìm được trên Tuổi Trẻ Online, số ra ngày 7 tháng 3 năm 2004:
“Ngày 7-3, tổng công ty du lịch Sài Gòn khánh thành tượng chân dung nhà văn Sơn Nam tại làng du lịch Bình Quới 1 (Thanh Đa), để ghi nhận đóng góp của ông đối với nền văn hóa phương Nam”
Té ra, Sơn Nam đã bị hóa đá. Hèn gì, ông không còn nghe được tiếng dân kêu ai oán ở rừng U Minh Hạ. Ông cũng không còn bận lòng gì nữa về số phận gian truân của những người đồng hương đi lấy chồng xa – dù là xa nhà đến năm ngàn (hoặc hơn) chứ không phải chỉ là năm mươi cây số – và sang sông (tập thể) bằng tầu chở hàng, trong thùng container, thay vì bằng một chuyến đò ngang hay đò dọc.

Khi bàn về số phận của một số những người cầm bút ở miền Nam – bị cấm viết sau tháng 4 năm 1975 – nhà văn Võ Phiến gọi họ là những “tài năng bị chôn sống.” Sơn Nam dù không bị cấm viết, ông vẫn bị chôn (sống) bằng một hình thức khác.
Vĩnh biệt Sơn Nam!

May 2006

8 BÌNH LUẬN

  1. Nguyễn Đức Tùng viết về thơ văn cách mạng trên Da Màu lâm thị mỹ dạ, thơ là cái đẹp

    Chị viết về chiến tranh không nhiều, và trong dàn đồng ca văn học cách mạng, giọng chị không vang lớn, nhưng có những bài thơ đầy sức mạnh của suy nghĩ

    Nguyễn Đức Tùng rất chính xác . Với những tác phẩm sâu lắng của mình, Lâm Thị Mỹ Dạ đã cement vị trí của mình trong dàn đồng ca văn học cách mạng, và Nguyễn Đức Tùng đang chen vào .

    Mọi người yêu mến Lâm Thị Mỹ Dạ

    Một lần nữa, Nguyễn Đức Tùng cũng đúng . Mọi người, ai cũng yêu mến Lâm Thị Mỹ Dạ, và ai cũng kính trọng Hoàng Phủ Ngọc Tường hít chơn hít chọi á

  2. “Chuyện “lấy chồng xa” của phụ nữ VN đã trở thành kỹ nghệ, ở mức “đại trà””- Tác giả Tưởng Năng Tiến .

    Vào trang mạng Insider Money, đọc bản tin “25 quốc gia kém phát triển nhất ở châu Á- “25 Least Developed Countries in Asia” February 6, 2023, danh sách này có cả Việt nam , cũng như các quốc gia khác như Mông Cổ, Sri Lanka, Bangladesh, Lào…

    Đọc bản tin “100 quốc gia giàu nhất thế giới “Top 100 Richest Countries In The World, June 23, 2023, không thấy có Việt nam.

    !!!

  3. Nói về Miền Tây Nam Bộ, không có nhà văn nào viết chuyên đồng quê hay hơn Sơn NAm.Nghe TNT kể chuyên Sơn Nam ,tôi lại nhớ truyên ngắn,”Chiếc lồng nhã” của nha2va8n Sơn nam:” Chi vợ ngồi nấu cám heo ở sau bếp,.Thỉnh thoảng lai giựt sơi dây ,kéo cái thùng thiết ,trong đó có vài viên sỏi,lêu leng-keng,treo o83 trên cây nhản,để xua đuổi mấy con giơi ăn nhản. năm ba phút chị giựt môt lần,chẳng biết bên ngoài có ai cả,Tình cớ Tây đi bố ráp ,nghe leng-keng,nhìn thấy cái thùng thiết treo trên cây.Tây vào nhà kêu chi ra,nó nghi chị báo tin cho VM.Lúc đó anh chồng đi ngoài đồng vừa về.Thế là nó đem 2 vơ chồng ra bắn tai sân nhà,tru7o72c mặt con trai.Lúc đó thằng bé 8 tuổi.! Từ đó về sau,thằng bé côi-cút một mình.Nó không còn chơi với trẻ em lối xóm. Các bô lảo trong làng ,di ngang nhà,đều thấy nó ngồi buồn bả -suy tư một mình trước hiên nhà. Các bô lảo nói với nhau;biết làng mình lại có anh hùng cái thế,thù -nhà-nợ nước. Thời gian trôi qua,hơn 5 năm sau.,một hôm có một bô lảo di qua ngang nhà nhà,thấy thằng nhỏ ,đang ngồi chằm những cái mo cau,bên cạnh nó ,có nhiều mo cau..Ông hỏi: “từ lâu ,tao tưởng mầy suy tư nghĩ kế hoach để báo hiếu cha mẹ” Ai ngờ,bây giờ mây chỉ ngồi làm mấy cái mo cau để lồng nhản!!” Nó nhanh nhẹn trả lời:’ cháu làm như thế nầy,còn thông minh,hơn mấy người xưa, nghĩ đến cái sào hải mận ,phải mất trên mười năm.! Còn cháu chỉ vỏn vẹn có trên 5 năm ,mà đả nghĩ ra cái lồng nhản -khỏi Dơi ăn!!”.
    Thưa bà con,qua câu chuyên cho ta cái gì: Đừng bao giời nghĩa “ai đó” đang suy tư cho Vân nước ! Ai biết,trong đầu “ai đó” đang nghĩ gì?? Nhà văn Bùi ngọc TẤn,sau khi tham quan Châu Âu trở về Hanoi nhận xét như sau: ” Trên đường phố của họ,ai củng thấy vui vẻ-hạnh phúc.Trên đường phgo61 hanoi,mọi người đi đừng cúi gầm mặt ,.hình như dăng tìm mưu kế!!’ Thì ra ,cơm áo-gao tiền chưa có ai lo-sức đâu mà lo việc nước -viêc dân!

  4. He he he ..

    Nhiều “cán bộ đảng viên lạo thành” đã sáng mắt, sáng lòng” sau khi “đảng chúng nó…cướp” được miền Nam, nhưng ngược lại …
    Sau ngày “phỏng (cái) giái”, Sơn Nam lại tự chọc mù mắt mình!

    Xưa mến mộ bao nhiêu thì nay sự khinh bỉ nhân lên gấp bội bấy nhiêu!

    Chẳng thà làm người tầm thường lúc trẻ, nhưng cuối đời thì lại được người đời kính ngưỡng…còn hơn là về già, đến lúc nhắm mắt rồi mà còn bị đời nguyền rủa như ông Sơn Nam.

    Bao nhiêu thành tựu của Sơn Nam đều bị đổ xuống cầu….tõm.

    Chết chưa phải là hết!

    • May quá, Sơn Nam ở trong nước . Chớ nếu ổng ở ngoài này, ổng sẽ phải nhờ Đảng giải cứu khỏi địa ngục covid

    • Well, ngược lại với các trí thức ngoài này . Qua Barcelona kiếm cho được lá cờ đỏ sao vàng chụp khoe. Ngu Thế Vinh tôn vinh Võ Tòng Xuân bằng cách đưa hình chụp chung với T-4 Võ Văn Kiệt . Nhưng biểu họ là Cộng Sản thì một mực “Em chã …!” và viết 1 bài nửa nạc nửa mỡ để chống chế .

      Và các chú kiss them arses lia chia lun

  5. Người Việt, bất cứ nơi đâu, dù trong nước hay hải ngoại đều mến mộ văn tài của Sơn Nam . Nhất là những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh của tác giả

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên