Nhận diện một số nhà văn Việt đầu thế kỷ 21 (1)

11

I. Xu hướng trội vượt của truyện ngắn trong văn học hiện nay

So ra hiện nay thì truyện dài kể là ít. Truyện ngắn thì quá nhiều. Vì thế, ý định viết bài này đã đụng phải một trở ngại lớn lao: số lượng truyện ngắn chất cao như núi và số lượng nhà văn tên tuổi hoặc không tên tuổi như cây rừng. Cơ man nào đọc cho xuể, nói chi đến nhận xét… Tự hỏi Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan nếu còn sống, trong tình huống đó, họ sẽ làm gì? Kể từ 1990, thời kỳ đổi mới, Nxb Hội Nhà Văn với gần 400 tác giả được in trong các tuyển tập và khoảng hơn 500 truyện ngắn. Nxb Văn Học cũng cho in Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc với 8 tập vào năm 1996. Tên các nhà văn đó lại thấy nằm trong bộ sách Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ 20 của Nxb Kim Đồng. Quá nhiều đến vô lý. Sàng qua sàng lại đến nhàm chán. Ấy là chưa kể các truyện ngắn được đăng rải rác trên các nhật báo, báo tuần, báo chủ nhật, báo văn nghệ của nhiều cơ quan, ban, ngành… Sự sống còn của một truyện ngắn và tác giả của nó nay tùy thuộc vào sự may mắn có được tuyển chọn vào tuyển tập hay không? Số phận chúng cũng như nhà văn sẽ ra sao, nếu không được tuyển chọn vào các tuyển tập? Và cuối cùng còn các truyện ngắn đăng trên các diễn đàn điện tử? Hết rồi cái thời chỉ có dăm chục nhà văn, cộng lại thành một nhúm mà ta có thể thuộc tên từng người, từng tác phẩm của họ.

Số truyện ngắn lấn lướt truyện dài muốn nói điều gì? Có nhà phê bình nói truyền thống VN là viết truyện ngắn? Một truyền thống kéo dài suốt bảy thế kỷ theo như Nxb Văn Học nhận xét? Chỉ nhìn những con số thì thấy truyện ngắn “đang được mùa”, nếu đi buôn gọi là trúng mối. Mà trúng mối thật, các nhà xuất bản tranh nhau in tuyển tập truyện ngắn..

Phải chăng truyện ngắn viết dễ, không tốn thì giờ, không cần vốn viết, hoặc để lộ sự non yếu chưa có tay nghề, hoặc giả đáp ứng nhu cầu đọc ngắn của người đọc?

Xu hướng viết truyện ngắn tràn lan như thế có điều gì đi ngược lại tình hình văn học thế giới? Hay xu hướng viết truyện ngắn đáp ứng được tính phân mảnh, tách rời toàn bộ đời sống thành những mảnh nhỏ vừa cô đọng, vừa sống động, xúc tích.

Truyện ngắn như thế mang sức chở đã nén và chiết lọc để chỉ còn giữ lại cái đáng nói nhất. Nó chống lại truyền thống viết truyện dài vốn vẫn được coi như một bằng chứng của tài năng hoặc giá trị. Nhưng đã có bao giờ, một nhà văn chỉ nhờ truyện ngắn trở thành đại văn hào, được các giải thưởng cao quý của thế giới?

Những Guy de Maupassant, Luis Borges đã hẳn là không nhiều, nếu không nói là thiểu số. Còn lại những Kawabata, Mishima, Marquez, Steinbeck, Hemingway… văn nghiệp chính của họ vẫn được xây dựng trên tiểu thuyết. Vì thế, có khi nhà văn nay viết truyện ngắn, rồi ráp nối các truyện ngắn đó trở thành một truyện dài. Đó là một điều tương phảnn trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. Người ta tự hỏi thế giới của truyện ngắn và truyện dài phải chăng có cùng một mẫu số chung từ văn phong, cách dàn dựng cốt truyện, nhân vật truyện? Văn phong của truyện dài vẫn được coi là lắm lời, lê thê. Trong khi đó, văn phong truyện ngắn là càng ít lại càng nhiều, less is more. Viết ít mà cô đọng. Nhân vật trong truyện dài có diện mạo rõ nét, còn trong truyện ngắn thường không rõ mặt. Chủ đích như thế phải chăng muốn lấy ngắn nuôi dài như người ta thường nói. Cộng “cái ngắn” lại thì chỉ dài về số trang, về lượng, có gì bảo đảm cho một “cái dài” dài thật? Dài ở mạch văn, hơi văn, đời sống xã hội và tầm nhìn thời đại của tác giả. Và cộng như thế, phải chăng tự thân, tố cáo truyện ngắn là một cái gì thiếu, chưa hoàn tất?

Tự nó, truyện ngắn là một mảnh đời, một câu chuyện, một nhắn gửi trong một quy trình khép kín, tự hiện hữu đầy đủ không cần thêm thắt hay cắt nối. Vì thế mới phát sinh truyện ngắn đến cực ngắn? Chẳng hạn truyện cực ngắn của Phước An, Thận Nhiên, Đinh Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Trần Tiễn Cao Đăng, v.v…

Nếu chỉ dựa vào những số lượng trên thì có phải là dấu hiệu đáng mừng không? Như Nguyễn Ngọc Tư, với trên trăm truyện ngắn gom lại thành nhiều tập: Ngọn đèn không tắt, Ông ngoại, Giao thừa, Biển người mênh mông, nxb Trẻ và Nước chảy mây trôi, nxb Văn Nghệ TP HCM. Cũng như trường hợp nhà văn Võ thị Xuân Hà đã có một số truyện ngắn được in ở hải ngoại như Lúa và đất, Nhà có ba chị em và nhất là Ngược Dòng rất lãng mạn tình tứ. Võ thị Xuân Hà đã cho in đến 6 tập truyện ngắn, tôi có đọc một cuốn mới đây: Truyện ngắn Võ thị Xuân Hà. Rất nhiều truyện buồn liên quan đến số phận phụ nữ cách này, cách khác.
Trong Nam, nxb Trẻ cũng thi đua cho in hai tập với tựa đề: Truyện ngắn miền Tây. Có rất nhiều tác giả trong hai tập, tất cả 54 nhà văn đã có nhiều đầu sách xuất bản như Dạ Ngân, Vũ Đức Nghĩa, Ngô Khắc Tài… vậy mà ít ai biết đến họ.

Sức chở trong truyện của họ hiện nay có đeo kịp những người thuộc thế hệ đàn anh như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Lê Xuyên, bà Tùng Long? Hay phải nói như Sơn Nam trong lời mở đầu giới thiệu, đồng thời là một lời bào chữa cho họ trong hai tuyển tập này:

“Nhưng đã có thành kiến từ lâu rằng những nhà văn phía đồng bằng là người ‘tỉnh lẻ’, thậm chí không hiện đại. Cũng có lý do: trong thời buổi ‘nghe nhìn’ ngày nay, các loại sách văn học gọi là ‘đứng đắn’ thường khó bán. Và người mua lắm khi cho rằng tác phẩm in ở nhà xuất bản của tỉnh thì thiếu sức nặng. Người viết ở tỉnh quả là khó khăn nếu muốn được giới thiệu trên sách báo Sàigòn, lắm khi bài được đăng là do may rủi, nhờ quen biết”.

Viện cớ của Sơn Nam về cái thành kiến đối với các nhà văn phía lục tỉnh thì còn hiểu được. Nhưng nói rằng, những sách văn học ‘đứng đắn’ thường khó bán… Nói như thế là không xong. Thế nào là đứng đắn hay không đứng đắn? Và có lẽ cũng là điều gây ra bàn cãi trong những phần bài tiếp sau đây. Nếu trước đây có tranh luận về Nghệ thuật vị Nghệ thuật hay Nghệ thuật vị Nhân sinh thì dám lắm nay có thể có một tranh luận về tính dục trong văn chương?

Xu hướng viết truyện ngắn cũng rất thịnh hành ở ngoài nước sau này với các nhà văn như Hồ Đình Nghiêm, Nguyễn Ý Thuần, Nguyễn thị Thanh Bình, Khánh Trường, Trần Vũ, Ngô Nguyên Dũng, Trân Sa, Trần Diệu Hằng, Lê thị Huệ, Phan thị Trọng Tuyến, Mai Ninh, Nguyễn thị Hoàng Bắc, Y Chi (Nhược Thủy), Vũ Quỳnh Nh, Hoàng Mai Đạt, Phùng Nguyễn, Song Thao, Ngự Thuyết, Lâm Chương, Nguyễn thị Ngọc Nhung, Nguyễn thị Ngọc Lan, Nguyễn Hoà Trước, Nguyễn Trung Tây, Mạch Nha, Võ Đình, Phạm Thị Ngọc v.v. nhưng rất ít được in lại thành tuyển tập. Có sự khác biệt là trong nước, việc xuất bản có sự xô bồ, tràn lan chạy theo lợi nhuận. Ngoài nước tương đối có chọn lọc và có chất lượng.

  1. Xu thế trổi vượt về các đề tài tính dục trong văn chương của các nhà văn lớp mới

Các đề tài trong văn chương bao giờ cũng lấy con người làm đối tượng. Cho nên truyện là chuyện con người. Đề tài trước đây thường là chiến tranh và hoà bình. Thân phận con người trong chiến tranh với chết chóc, tàn phá, mất mát và đau khổ. Hoặc những đề tài về xã hội con người với những thể chế, những bất công, xã hội giầu nghèo, v.v… Nhưng đề tài nào thì cũng lồng trong đó truyện trai gái. Khác đi là truyện tình. Xưa, ta có truyện cổ tích như sự tích Trầu Cau, Trọng Thủy-Mỵ Châu, sự tích Ông Đầu Rau, Bà Chúa Ong, sự tích Đá Bà Rầu… Truyện lịch sử thì có chuyện Bà Chúa Chè, Nhà sư Huyền Quang, Phạm Thái-Quỳnh Như, công chúa Huyền Trân. Truyện cổ văn thì ta có khá nhiều Kim Thạch kỳ duyên, Quan âm thị kính, Nữ tú tài, Thạch Sanh, Phan Trần, Từ Thức. Ngay như đọc các truyện ngắn của người miền Sơn Cước cũng không thiếu những đề tài về tình yêu trai gái đầy hấp dẫn và lạ lẫm. Chẳng hạn các truyện: Động A Mang và Khe Xà Nông, Sông Krông Buk, Dốc A Nàng… Phải đợi mãi đến Phạm Duy Tốn, trong truyện ngắn Con người sở khanh, vào tháng 2, 1919, ta mới thấy có chất mới, và đôi chút táo bạo trong đó: “Loan ôm Phượng, Phượng bồng Loan, miệt mài trong cuộc truy hoan, trai tơ gái nõn. Xuân đang mặn mà. Tha hồ vui thú nghi gia”.

Hơn nửa thế kỷ sau, đề tài trong các truyện bây giờ không còn là những truyện tình, nhưng là truyện tình dục đậm đặc giữa trai gái. Nói như thế không có nghĩa các đề tài khác bị bỏ quên. Nó vẫn còn đấy, nhưng nhạt và như một xen kẽ, như một phụ phẩm và hơn nữa đã đến lúc cần thay đổi…

Mai Ninh, Trần Vũ, Lê thị Thấm Vân vẫn viết về những vấn đề liên quan đến cuộc chiến đã qua. Trần Diệu Hằng với Vũ điệu của loài công, Mưa đất lạ và Chôm chôm yêu dấu vẫn là những tập truyện ngắn liên quan cuộc sống người tỵ nạn, đến tâm tình từ góc độ một người tỵ nạn. Lê thị Huệ với Bụi Hồng, Kỷ niệm với Mỵ Anh và Rồng rắn vẫn là những soi chiếu vào tâm tình những cảnh đời của nếp sống di dân qua hình ảnh cô sinh viên thuở trước và bây giờ. Nhưng người ta vẫn nhận ra đề tài về tính dục vẫn là nét trổi bật trong các truyện của các nhà văn kể trên (trừ Trần Diệu Hằng). Thứ văn chương với đề tài có xu hướng trổi bật về tính dục đã mở đầu như một thứ cách mạng tình dục trong tiểu thuyết. Trước đây thì cũng có Tuý Hồng, Lệ Hằng, Thụy Vũ… cũng đậm mà chưa đặc, chưa đủ mặn. Ai là người đánh trống, cầm cờ về đề tài này? Có thể là Trần Vũ, Trân Sa hay Kiệt Tấn, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Trường An và nhất là Lê thị Thấm Vân. Truyện sẽ không viết, sẽ không đọc, nếu không có trai gái. Trai gái không phải chỉ yêu, chỉ nhớ.

Truyện tình dục hiện nay là truyện có mông, có vú, có cửa mình, có ‘thanh sắt’, có tinh trùng, có sờ mó, có tiếp xúc bằng tay, bằng miệng, có để vào, có hoan lạc thay vì hạnh phúc, có rên xiết thay vì mùi mẫn… Thời trước là truyện tình thì nay là truyện tình dục. Thời trước nó mùi mẫn cảm động, thời nay nó hấp dẫn và quyến rũ. Thời trước nó thanh hoá, lý tưởng hoá. Thời này nó tục hóa và gọi tên sự vật một cách trần trụi. Không còn những con tim héo hon, đợi chờ mong nhớ hoặc muộn màng lỡ bước, nước mắt và chia ly. Chỉ có da thịt nảy mầm, đòi hỏi, tham lam, vội vàng và hưng phấn. Rõ ràng có một ngã rẽ đứt đoạn, muốn ly khai với thời kỳ ‘văn học lãng mạn tinh thần’ và mở ra thứ ‘lãng mạn thân xác’.

Lê Thị Thấm Vân. Nguồn: hopluu.net

Lê thị Thấm Vân với tiểu thuyết Âm vọng, đã được nhà thơ Đỗ Kh. cho là một nhà văn nữ viết ‘tới’ nhất. ‘Tới’ theo nghĩa vừa táo bạo vừa mới…

Cánh cửa phòng tắm bật tung…

Tôi chịu hết nổi, tuột gấp quần, chỉ kịp qua khỏi đầu gối. Tôi ngồi bệt xuống sàn xi măng ẩm nước, góc tường lạnh thấm qua lưng, hất cái ghế đẩu nhựa sang một bên, ngón tay tôi run run đút sâu… luồn lách qua từng thớ thịt khe rãnh nhầy nhụa ấm nóng. Sóng cuồn cuộn trên vũng bụng. Ngón tay hút chặt. Đầu môi con bạch tuộc. Tôi biết tôi muốn gì, làm gì, ngay trong giây phút này. Tôi hoàn toàn thuộc về tôi. Cái quẫy mình của con kình ngư.”

Gần như một tuyên ngôn tình dục, thế giới mới của văn xuôi! Dứt khoát và khẳng định!

Đặng Thơ Thơ trong tiểu thuyết Khi phong linh vỡ:

Chẳng hạn lúc nào bắt đầu bị gợi tình? Khi anh vuốt ve cuối sống lưng làm cô rợn người, hay trước đó nữa? Rồi cảm giác tê rợn đi theo vào phòng vẽ? Lúc Linh Đằng vào bếp pha rượu, cái vuốt ve vẫn ở lại và làm cho ẩm ướt?”

Nguyễn Hương mở đầu truyện Thời hậu chiến, ngay dòng thứ năm đã bắt đầu tức khắc:

Núm vú Điền tròn to, bình thường hơi trễ xuống theo con đứa ngậm, đứa nhai đứa mút, đứa nào cũng ra năm mới dứt. Nhưng lúc này thì núm vú Điền săn lên đụng vào đầu ngón tay tôi di di nhè nhẹ vòng từ sau lưng ra trước ngực”.

Bên cạnh đó, Nguyễn Hương vẫn có thể viết truyện Mô tô bay chẳng có dính dáng gì đến tính dục cả.

Cổ Ngư, trong truyện ngắn Đêm nghi ngại:

Mẹ, đầu gối đè cứng lên tay còn giăng chữ thập, tọng khăn chẹn họng, giữ chặt lấy tiếng thét của đứa gái tơ đang bị phá trinh trên sàn bếp. Phơi thân dưới tay đồ tể. Tên dượng ghẻ hì hục thọc mạnh, đâm sâu, vừa gào, vừa tát mẹ, đầu móng cáu bẩn dầu nhớt xe của bàn tay còn lại cào ngấu ngực non.. Từ đó con bé lăn vào đời, máu không ngưng chảy từ vết thương chẳng bao giờ liền miệng. Không căm đàn ông. Không thù dượng ghẻ. Nhưng hận mẹ, cùng những dòng nước mắt tuôn lã chã ngay khi ấy, cả mấy ngày sau…”

Đỗ Lễ Anh Đào. Nguồn: hopluu.net

Đỗ Lê Anh Đào, một nhà văn nữ khác, sinh 1979, viết về tính dục ấn tượng hơn trong truyện ngắn Như tâm thần hoang tưởng:

Nhảy với em nhé? Nàng phà hơi thở nóng đậm mùi rượu vào tai và ép thân thể nhễ nhại mồ hôi sát người tôi vào tường. Nàng cầm tay tôi áp vào bụng mình, dẫn dắt chỉ đường cho những ngón tay tìm tòi. Tôi mần mần bàn tay trên sàn bụng thẳng, luồn xuống dưới lớp vải kim tuyến ràn rạt. Ở dưới lỗ rún xỏ hột cườm, là những sợi lông măng vàng lạt, nhiều mà mềm. Và ở dưới nữa, là những ngó ngách mơn mơn ẩm ướt, sâu mà chật. Sự táo bạo bất cần quyến rũ tôi, lôi kéo tôi vào nhịp điệu đêm của thành phố.”

Nguyễn thị Minh Ngọc, trong Sắc: “Bằng cách nào đó không rõ, nàng như từng đợt sóng, nâng quấn rồi đẩy chìm tôi để môi tôi được trôi đến đỉnh cao cảm xúc, uống no nê tất cả những mật ngọt tận nguồn. Đôi chân nàng quấn cổ tôi như muốn nghiền cổ kẻ tội đồ tham lam là tôi chẳng bao giờ thấy đủ… tay tôi quờ quạng tìm kiếm cho đến khi chạm được cảm giác an tâm của trẻ thơ lúc đày đọa được bầu vú mẹ hiền.”

Phùng Khánh Minh, một cây bút mới vừa xuất hiện, có nhiều tiềm năng và triển vọng với truyện ngắn Trưa nắng Hàm Ninh khá hay, đầy sáng tạo đến gây ngạc nhiên, đến là quyến rũ:

Pá thẩy tôi nằm sấp trên cát, một tay ghì hai cánh tay tôi quặt ấp lên mông, tay kia tóm một chân bóp mạnh, nhào nặn từ mắt cá lên tới bắp đùi. Năm ngón thôi mà như năm đầu kìm xiết nát da thịt. Thật lạ lùng tôi chẳng thấy đau đớn, không cả tức tối trước sự vũ phu bất ngờ mà thốn lên cảm giác bừng bừng nộn nạo. Rõ ràng pá đang hành hạ mà tôi sung sướng. Tôi còn muốn được pá dìm đầu xuống nước, được pá nghiền nát tan tành thành cát, được ghìm chặt dưới sức đè của pá Hổi thật lâu. Tôi muốn pá mài tôi kỹ lưỡng cho mềm thành muối biển. Nhưng trong khi tôi cắn răng ngóng đợi rình rập cái đau thắt buốt phóng sâu vào ngõ thẳm tối tăm của thịt da mình thì chợt tất cả sức ghì xiết ấy bung ra như sợi dây trói thình lình cắt đứt… Tôi hụt hẫng ngỏng cổ lên, người đàn ông quỳ bên cạnh đang lom lom nhìn suốt đáy lưng mình. Nhìn thật sát như pá muốn soi vào tận ruột gan tôi. Rồi như nhiều lần đã thế, pá Hổi lấy ngón tay trỏ quệt dài một lằn theo đường xương sống, ngừng lại ở phần tôi nhạy cảm nhứt, nhấn nhẹ một đốt rồi chậm rãi đưa vào miệng.”

Trích dẫn như trên cho thấy đề tài trổi bật của các nhà văn hiện nay là thế giới của tính dục, của những rung động da thịt, những ham muốn khát khao nguyên thủy, của đòi hỏi được tràn đầy, sung mãn… Nó khác xa với thế giới các nhà văn trước đây, đến chừng như giữa hai lớp nhà văn, không còn có điểm gì chung và tương đồng nữa.
Đề tài với thế giới truyện đậm nét tình dục của các nhà văn hiện nay có đáp ứng được những nhu cầu và sở thích của người đọc không? Đã có những phản ứng gì về phía người đọc?

Lê Quỳnh Mai. Nguồn: hopluu.net

Để trả lời cho câu hỏi trên, tôi thử làm một thăm dò một số độc giả để xem họ nghĩ gì, thái độ ra sao đối với các nhà văn đang chiếm lĩnh văn đàn hay vừa xuất hiện. Tôi đã chọn và gửi đi truyện ngắn của 4 tác giả: Mai Ninh, Lê thị Thấm Vân (hai nhà văn đã có tác phẩm, đã có tiếng tăm) và hai người mới viết gần đây: Đỗ Hoàng Diệu và Lê Quỳnh Mai. Sự chọn lựa các nhà văn trên và chọn lọc 19 độc giả chỉ có tính cách tượng trưng, hướng dẫn, không có nghĩa đại diện. Trong số 19 độc giả, có 7 cặp và có 5 người ở tình trạng độc thân, một phụ nữ chủ báo có chồng, nhưng chồng không tham dự. Tuổi từ 49 đến 70. Có hai người trình độ tú tài, còn lại 17 người đã tốt nghiệp đại học. Trong số tốt nghiệp đại học, có 10 người tốt nghiệp đại học Âu Mỹ.

Có chín người từ lớp tuổi 49 đến 55 có đọc hoặc chỉ nghe tiếng Mai Ninh và Lê thị Thấm Vân. Có hai người biết Lê Quỳnh Mai qua những bài phỏng vấn. Có một người đã đọc Đỗ Hoàng Diệu.

Có 16 người không có ý kiến chống đối hoặc phản bác khi đọc Mai Ninh. Chỉ có hai người cho biết truyện của Mai Ninh đọc khó hiểu. Trong số 12 phụ nữ, có bảy người có gia đình, có bốn phụ nữ có gia đình đã chống đối kịch liệt Lê thị Thấm Vân, sau đó Đỗ Hoàng Diệu, rồi chống đối vừa phải Lê Quỳnh Mai. Sự chống đối này chỉ là dị ứng cảm quan khi đụng chạm đến vấn đề tính dục, sức đề kháng dựa trên quan điểm đạo lý, về cái được phép viết hay không được phép viết hơn là tài năng của tác giả. Thật khó mà đo lường được một cảm quan đạo đức, ở một mức độ nào được phép và không được phép của ngôn từ. Thời bà Ngô Đình Nhu, cái áo hở chút cổ bị coi là phạm thuần phong mỹ tục. Ngay như một cái quần lót, xén bớt một phân đã khác, thêm một phân đã khác. Cái váy trên một tí, cái nịt áo ngực trễ xuống một tí trở thành vấn đề phẩm cách con người… Ly tấc nào đo được những chuyện như thế trong văn chương? Nên đo cái đầu mỗi người hay là đo chữ nghĩa? Ba phụ nữ độc thân và ba phụ nữ có chồng đã không chống đối. Trong số 7 người đàn ông, 6 người tán thưởng các nhà văn Đỗ Hoàng Diệu, Mai Ninh và Lê Quỳnh Mai. Chỉ có 4 tán thưởng Lê thị Thấm Vân. Một không ý kiến, một nhận xét tiêu cực về Đỗ Hoàng Diệu viện dẫn những lý do tâm thần.

Qua những độc giả trên cho thấy tác phẩm của Mai Ninh được đón nhận và cho là hay. Lê thị Thấm Vân thì ngay cả phía đàn ông cũng chông chênh, không dám ra mặt bênh hẳn. Đỗ Hoàng Diệu có hai loại độc giả rõ rệt: hoặc kết án, hoặc khen… Kết án thì khá nặng. Những người kết án đều là những phụ nữ có gia đình. Có người còn bầy tỏ viết như thế là xúc phạm đến phụ nữ, trong đó có họ… Có nên kết luận là các phụ nữ đã có gia đình có thể bảo thủ trong vấn đề này khi một số phụ nữ tương đối trẻ và sống độc thân thì tán thưởng? Phía nam giới, 6 người khen truyện của Đỗ Hoàng Diệu, trừ một vị. Đặc biệt, người đọc cả nam lẫn nữ khi khen Đỗ Hoàng Diệu đều khen hết lời: như đọc say mê, quá hay đối với một thiếu nữ 28 tuổi. Đối với Lê Quỳnh Mai có chê, có khen…

Với 19 độc giả vừa nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một vài kết luận như sau:

– Lớp độc giả từ 60 trở lên ít đọc và ít theo đõi sinh hoạt văn học, nhất là về các nhà văn lớp mới. Sự đánh giá tốt xấu tùy thuộc vào phái tính, nam hay nữ và hoàn cảnh gia đình. Đỗ Hoàng Diệu, một khuôn mặt nhà văn trẻ vừa xuất hiện, đã gây được sự chú ý và đánh giá đặc biệt. Đây là một dấu hiệu rất tốt cho chính tác giả mà còn cho cả độc giả. Nếu truyện hay, đạt đến một tầm vóc nào đó, vẫn có nhiều người muốn đọc.
Mai Ninh là một tác giả được nhiều người thích đọc và không bị công kích phản đối, trừ một hai người cho là đọc khó hiểu. Lê Quỳnh Mai, mặc dầu cầm bút đã lâu, nhưng viết truyện ngắn thì mới đây cũng đã gây được chú ý của người đọc, cả khen lẫn chê.

Sự khen chê ở trên thật khó mà lý giải… Người ta dễ dàng chấp nhận xem những bức tranh lõa thể để phô ra ngực, đầu vú, đùi, cửa mình với lông rậm rạp từ hàng hai nghìn năm trước của La Mã, của Pháp, của Hy Lạp, của Tàu. Người ta chấp nhận xem những phim tình dục với đủ kiểu.

=Nhưng những điều đó thể hiện dưới con chữ thì y như có sự chống đối? Một số người đọc có cảm giác bất an và bối rối khi phải đọc những đề tài tính dục như thế? Vấn đề là tìm hiểu tại sao một số người đọc có những cảm giác bất an, không thích những trái chứng, những khác thường lộ liễu? Phải chăng đó là những ghetto của người đọc trong văn học thời nào cũng có?
III- Xu hướng nổi bật về cái Tôi trong truyện của các nhà văn hiện nay.

Trước đây, các nhà văn viết truyện thường tránh né đưa cái tôi vào trong truyện. Câu chuyện trong văn chương và tác giả là hai thế giới khác nhau: Thế giới con người, đời thường và thế giới tiểu thuyết thường được coi là không thật. Vì thế, các nhà văn thường dùng các danh xưng như: Nó, hắn, chàng, nàng… và cụ thể hơn đặt cho các nhân vật tiểu thuyết một tên gọi. Truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tô Hoài và gần đây như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm thị Hoài, Trần Vũ, Nguyễn Ngọc Tư đều sử dụng kỹ năng này. Trong nước, thì nay cũng có nhiều người đã đem cái tôi vào trong truyện. Chẳng hạn, Nguyễn thị Ngọc Tú với truyện ngắn Gia sư, Nguyễn Thế Tường với Hồi ức của một binh nhì. Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn Sân Chơi, Y Ban với Vùng sáng ký ức, Đỗ Chu với Quanh một bàn tiệc, Phan Triều Hải với Chuyện vườn, Dương Duy Ngư với <ịThủy Tiên, Nguyễn thị Phước với Phù sa và Từ Nguyên Tỉnh với truyện ngắn khá đặc sắc Người tình của cha. Khá đặc biệt là Phan thị Vàng Anh với cái tôi khá đậm đặc.

Khuynh hướng đồng hoá nhân vật tiểu thuyết với tác giả càng trổi bật với các nhà văn lớp mới hiện nay.

Gần như phần lớn các truyện ngắn trong ba tập truyện của Mai Ninh đều có cái tôi trong đó. Hãy khoan bàn đến cái tôi thật hay tôi mượn, cái tôi chính mình hay tôi hư cấu. Cho dù được sử dụng ở ngôi thứ nhất, nhưng vẫn có thể không hoàn toàn là cái tôi của tác giả. Nhiều nhà văn sử dụng cái tôi, nhưng vẫn chối từ vai trò tác giả trong những cái tôi đó. Người viết bài cũng nhận thấy ‘cái tôi’ phái nữ được sử dụng khá nhiều so với cái tôi phía nam giới.

 Đỗ Hoàng Diệu với 3 truyện ngắn xuất sắc như Tình chuột, Bóng đè, Dòng sông hủi… nhân vật chính luôn luôn xưng tôi. Nguyễn Danh Bằng trong Một ngày cuối tuần, Thị trấn; Lê Quỳnh Mai trong Câm; Phước An trong Sao và đất, Điện thoại; Thúy Hằng với Chạy Tự do; Nguyễn thị Thanh Bình với Lạc Bóng; Khỏa thân đêm; Nguyễn Hương với Thời hậu chiến; Nguyễn Hữu Hồng Minh với Nghệ thuật tương lai, Hoa lá xanh tươi; Phạm thị Ngọc với Qua hôn mê, Johnny và Kate; Thuận trong China Town và I’m yellow; Cổ Ngư với Đêm nghi ngại; Nguyễn Nguyên Phước với Tâm trạng khi điên; Nguyễn Viện với Ốm vì làm tình, Ký tự ở đầu giường; Đỗ Lễ Anh Đào với Như tâm thần hoang tưởng; Nguyễn thị Minh Ngọc với Sắc; Phạm Hải Anh với Sắc không, Bình chân như vại; Phạm thị Minh Thư với Insulin; Nguyễn thị Ngọc Nhung với Có phải là tình yêu; Phùng Khánh Minh với Trưa nắng Hàm Ninh xưng tôi ở cả ba nhân vật khác nhau trong cùng một truyện ngắn…

Cái tôi nhiều lắm, tràn lan đến lạm phát. Phải chăng đó là xu hướng trổi bật nơi các nhà văn mới? Nó nói lên điều gì?

Có thể sức chuyển tải nhà văn bám víu vào vốn sống là chính. Có thể cái vốn sống đó không vươn lên được, không trải rộng, nhân ra bội số thành truyện dài với tầm kích: tầm kích lịch sử, thời đại và xã hội cũng như tầm nhắn gửi.

Nó có thể như chia cắt đời sống ra từng mảnh, chọn những mảnh sắc nét và tạm bỏ quên tất cả những mối liên hệ phức tạp của cuộc sống nhân sinh. Có lẽ vì thế khó có truyện ngắn nào hiện nay có thể đọng lại lâu dài nơi người đọc. Khó để trở thành một Guy de Maupassant lắm. Nó thoang thoảng rồi bay đi qua mau như một hương thơm còn sót lại. Vì thế, nhiều nhà văn, trong sâu kín, sau khi viết truyện ngắn cũng ước mong viết một truyện dài để đời và cao hơn nữa, một trường thiên tiểu thuyết như 5 tập Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác. Chẳng biết có phải là trường hợp nhà văn Mai Ninh với truyện dài Cá voi trầm Sát? Về phương diện kỹ thuật tiểu thuyết, người viết nhận thấy nhà văn hôm nay đang đụng phải một số nan đề về kỹ thuật truyện ngắn trong truyện dài: Về văn phong, về cấu trúc và cốt truyện, về tình tiết, về những chương, hồi, đoạn, thời gian và nhân vật truyện .

Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Nguồn: vietnamlit.org

Cái tôi trong truyện có thể cho thấy nhà văn viết văn xuôi phần đông viết từ cảm nghiệm bản thân, từ trải nghiệm đời mình, hoặc từ những hoàn cảnh xã hội mà họ dự phần, từ những đớn đau, những cay nghiệt gánh chịu của con nguời trước xã hội hay trước lịch sử. Đó là vốn sống – vốn nhân chứng – vốn đầu đời. Như trong một trả lời của Nguyễn Thị Hoàng Bắc trên Hợp Lưu, số 21, 1995:

Khi mới bắt đầu cầm bút, tôi thường dựa vào những chuyện riêng tư của mình, của đời sống hằng ngày mà mình quan sát được, đem nó vào văn chương, vào mục đích muốn giải bầy một điều gì đó, một quan niệm sống, một chia sẻ nỗi đau với người đồng cảnh, một lời tâm sự, một nỗi đau lòng, một mối thiết tha…”

Họ hay sử dụng cái Tôi của họ, phải chăng bắt nguồn từ cuộc sống của họ? Thứ vốn sống đó được nuôi dưỡng, được ủ, trở thành khát vọng rạo rực, lớn lên cùng với tầm mức nhận thức của tác giả, tạo thành sức mạnh tinh thần đến như đó là lẽ sống của nhà văn (Raison d’être)… Vì thế, nội dung sáng tác của họ có thể là chính hiện hữu cuộc đời họ, thể hiện thông qua các nhân vật truyện… Trong các truyện này, rất nhiều truyện đã để ‘cái Tôi’ như chủ thể câu chuyện, như một thứ tự sự, một bộc lộ tâm can, một giải bầy như trường hợp Phan thị Vàng Anh. Nhà văn đồng hoá mình với ‘cái Tôi’ trong truyện giúp nhà văn dễ dàng dàn trải những điều muốn nói, những ước vọng.

Hệ số bản thân của tác giả cũng xuất hiện đến lộ liễu không cần che đậy. Đó là trường hợp của Mai Ninh, Lê thị Thấm Vân, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn thị Thanh Bình

Dựa trên cái tôi đó, có thể nào giúp phân biệt giữa truyện ngắn và truyện dài? Cái tôi trong truyện ngắn, với nhân vật truyện xưng tôi là một. Vì thế, nhân vật truyện thường không rõ mặt. Từ cách ăn mặc, đi đứng, điệu bộ, cử chỉ, tiếng nói, tính tình và nhân cách đều không được mô tả. Bởi vì chính nhà văn là nhân vật truyện.

Sự khai thác vốn sống là lẽ sống còn của nhà văn. Nhưng vốn sống là vốn có giới hạn, múc mãi sẽ cạn, đào xới mãi sẽ trơ đất đá, sỏi cứng. Điều đó đã đưa đến những hệ quả là nhiều nhà văn viết truyện ngắn, chỉ hay, chỉ xuất sắc lúc ban đầu, rồi dần đi vào tạnh nguội. Phải chăng đó là một cảnh báo chung cho mọi người? Phải chăng đó là trường hợp Nguyễn huy Thiệp, nhiều truyện của họ tiếp theo sau đó mất cái căng cứng của sức sống, mất chất lửa, mất cái nhựa sống của câu chuyện. Sức sống của ngôn ngữ không còn, không chuyên chở được gì, khả năng chuyển tải mệt mỏi, làm sao lôi cuốn được người đọc… Từ đó rơi vào sự sa đà của ngôn ngữ, trong khi đặc điểm sinh tử của truyện ngắn là một đòi hỏi gắt gao, ráo riết, bức bách đến căn tính của ngôn từ: cái Mới trong cách hạ một con chữ, một ngôn từ. Như thể lần đầu. Như thể một khai sinh mới. Và đây cũng là đặc điểm để phân biệt giữa ngôn ngữ của truyện ngắn và truyện dài.

Cái tôi trong truyện là dấu ấn đặc biệt của văn xuôi hiện nay. Nhà văn và nhân vật truyện là một. Một câu chuyện, một thế giới, một cuộc đời. Có thể không còn cảnh lấp ló, thập thò, dấu mặt. Từ nay nhân vật truyện như người ngôn sứ của tác giả với những mảnh đời, những hoài niệm quá khứ, nỗi niềm tâm sự, những khát vọng thâm sâu và vô biên được dàn trải ra trong truyện. Nhưng cái tôi trong truyện với hệ số bản thân là bao nhiêu lại là một vấn đề. Nhưng ai cũng thừa hiểu rằng xưng tôi cũng không nhất thiết phải là tác giả, nhà văn. Vẫn còn cái phần thêm thắt vào, phần hư cấu. Xưng tôi để dễ bề kể chuyện, viết cho linh hoạt… Vì thế có cái tôi lộ liễu, có cái tôi kín ẩn. Thật ra cũng không dễ gì đi tìm cho ra lẽ có bao nhiêu cái phần trăm của cái tôi trong truyện. Thảo Trường, một nhà văn nổi bật ở truyện ngắn trước đây cho rằng cái tôi có thể 99%, mà cái hư cấu cũng có thể 99%. Thấy hay là được. Thấy cảm nghiệm được là tốt. Nhưng khi đọc đôi khi không tránh khỏi cái cảm nghiệm là hình như tác giả muốn nhắn gửi cái gì, muốn kể chuyện đời mình trong nhân vật truyện. Tác giả có thể không nhận điều đó, nhưng người đọc vẫn cảm nhận thấy thì sao? Chẳng hạn khi đọc Mai Ninh trong Mưa mùa xa. Ta chụp bắt được cái gì, xót xa với tác giả. Hay như trong Bão cát, Đêm rượu đợi, Nến trong kẽ liếp… Có cái gì của tác giả mà cũng như dự phần của ta trong đó. Cái tôi, cái tác giả lẫn lộn, tráo chỗ. Cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt. Có lúc cái tôi vừa là đàn ông, vừa là đàn bà như trong truyện Trưa nắng Hàm Ninh của Phùng Khánh Minh hay Mai Ninh trong Cuộc trầm sát của loài cá voi.

Nhưng có một điều này rõ rệt là hễ nhà văn là phụ nữ thì nhân vật truyện 99% là phụ nữ. Sự đồng hoá này nói lên điều gì? Sự hoá thân như thế là một thứ kinh nghiệm siêu vượt, một thứ nhị trùng bản ngã, biến cái giả thành thật, ngay cả cái hư cấu. Câu chuyện trở thành câu chuyện đời một người với những trải nghiệm. Nhà văn không còn là nhà văn nữa. Chính cuộc đời ấy mới là điều quan trọng. Gần như có sự đồng lõa nhập vào trong cảm nghiệm: cái Tôi và tác giả và người đọc.

Đỗ Hoàng Diệu. Nguồn: Tiền Phong

Nhưng cái Tôi trong truyện thì thiên hình vạn trạng, biến đổi như có ma thuật. Mỗi câu chuyện là mỗi cái tôi. Cái tôi của Đỗ Hoàng Diệu thì đọc đến choáng váng, đến ngạc nhiên, đến sững sờ. Tôi vẫn từng tự hỏi như thế mỗi lần đọc xong truyện của cô. Nó đặc sắc, nó hay lắm, nhưng có cái gì đến tàn bạo, xé nát, vạch trần đến thô kệch, trắng trợn đến đỏ mặt.

Công chưa bao giờ tin tôi. Anh vừa lột váy vợ, sờ nắn, ngửi tìm dấu vết một tội phạm. Hành động của anh ghì chết tàn tích yêu đương cuối cùng. Nhiều ngày sau, tôi mới biết vùng kín của mình đã thành hiện trường của một vụ án nghiêm trọng”.

Một cái tôi với con chữ lạnh tanh, khinh bạc, sắc cạnh, thẳng đuột, ngắn, gọn. Cái cảm giác này bắt tôi nhớ lại khi đọc Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp. Phải có trải nghiệm như thế nào, phải có vốn sống cộng lại của cay nghiệt, của ê chề, thất vọng đến thế nào để cái Tôi của một người con gái 28 tuổi nói lên những ngôn từ như vậy? Thật sự tôi nhìn ở đó một tài năng không chối cãi được, nhưng cũng cảm thấy một sự bất nhẫn không dằn được. Thay vì tiếng hót của một loài chim thì là tiếng trầm thống của của một giống người mang vết thương trầm tích với tiếng kêu của một bi kịch loài người.

Cái Tôi trong tiểu thuyết của Lê thị Thấm Vân chỉ có thể nói là độc nhất chưa có đến người thứ hai… Muốn biết thì cầm lấy mà đọc, nhất là trong cuốn sách mới: Âm Vọng. Nhiều người đọc Lê thị Thấm Vân sẽ có cảm tưởng: cô bé này trong đời sống thường ngày hẳn là ghê lắm… Họ sẽ đẩy trí tưởng tượng đi xa lắm. Dĩ nhiên, độc giả đã lầm lẫn và ngộ nhận… Sự ngộ nhận như thế hiểu được, vì tác giả xưng tôi

Xưng tôi mà cứ bắt buộc người khác phải hiểu là tôi nhưng không phải tôi. Đã hẳn Lê thị Thấm Vân cũng thâm cảm được điều đó. Vì vậy nên Lê thị Thấm Vân mới lưu ý người đọc trong phần giới thiệu tác giả ở trang bìa cuối như sau: Lê thị thấm Vân, hiện sống cùng chồng và hai con tại miền Bắc California, Hoa Kỳ… Sống cùng chồng và hai con có phải là một tín chỉ không? Vẫn muốn phân biệt Cái Tôi nhà văn và cái Tôi đời thường: Cái Tôi của một người đàn bà đốn mạt, đĩ điếm, ngu dốt trong Âm Vọng và cái tôi Lê thị Thấm Vân, một phụ nữ có ăn học, đức hạnh đàng hoàng, có chồng và nuôi con… Phần người đọc, ai cấm họ nghĩ rằng những điều viết ra là sản phẩm của nhà văn, đã được sàng lọc, được ấp ủ, được đi qua một thảo trình của bộ óc trước khi ra đời.

Dấu tích nhà văn ở đó, suy nghĩ ở đó, tình cảm ở đó, ham muốn ở đó và dĩ nhiên cái Tôi nằm ở đó. Chạy đi đằng trời.

Viết với cái tôi trong truyện, rồi phủ nhận nó. Đó là một thứ mặc cảm về cái tôi. Thứ mặc cảm này lây lan đến nhiều nhà văn. Lê thị Thấm Vân trong một thư viết cũng nhắc lại Thấm Vân có chồng và hai con. Lây lan sang Đỗ Hoàng Diệu, Phước An, Nguyễn thị Thanh Bình, Lê Quỳnh Mai và Mai Ninh… Họ cứ chối đây đẩy rồi cuối cùng loanh quanh cũng để lộ có chút mình trong nhân vật truyện. Như Mai Ninh trong bài trả lời phỏng vấn của Lê quỳnh Mai:

“Tuy nhiên với người viết, một khi viết bằng cảm xúc thì không dễ gì tránh khỏi ảnh hưởng của một số xúc động đến từ tình yêu và cuộc đời mình. Chúng sẽ lãng đãng trong những gì ta viết ra vì vốn có mặt thường xuyên trong ta rồi. Không nhất thiết phải đúc kết đem ra kể lại, viết thành một truyện. Còn như Maguerite Duras đã thành công với chuyện tình đầu đời của bà (Người tình miền Hoa Bắc), làm được một best-seller thì hay thôi”.

(trích phỏng vấn của Lê Quỳnh Mai, Hợp Lưu số 63, tháng 2, 2002).

Nhưng với cái tôi đó, nhiều nhà văn đã nhìn rõ được chính mình, lặn sâu vào vùng sâu thẳm của bản thể mình, thăm dò và khơi mở những khát vọng, những trăn trở của hiện hữu người, phơi nó ra và làm cho truyện trở thành sống động, có tầm cỡ. Đến như thể, không có cái tôi đó thì câu chuyện đã hẳn là không như vậy. Nhờ có sự đồng hoá, truyện được lôi đi, cuốn hút tùy theo mức độ rung cảm của tác giả, vượt được những trở ngại của ngôn từ… Tác giả không còn phải loay hoay đánh vật với chữ nghĩa, viết đi viết lại vì ngừng ngập bế tắc. Có thể viết một mạch suốt đêm đến 6 giờ rưỡi sáng. Chữ nghĩa tuồn tuột đi ra như không trì kéo được nữa… Người đọc dễ dàng nhận ra điều đó trong các tác phẩm của Đỗ Lễ Anh Đào, Mai Ninh, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Phạm Hải Anh, Lê Quỳnh Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Lê thị Thấm Vân, nghĩa là gần như tất cả những nhà văn đều xưng Tôi trong truyện… Nhiều nhà văn đã ngạc nhiên đến không thể ngờ họ đã bị nhân vật truyện dẫn dắt, tự đặt mình vào hoàn cảnh, tâm trạng của nhân vật. Nhất là trong những đoạn mô tả làm tình. Tác giả say sưa, phấn khích, hoang dại, mất chủ động như thể chính mình trong cuộc. Đến khi viết xong, không khỏi ngỡ ngàng về những gì vừa hoàn tất, về sự thúc đẩy của tình huống. Hãy đọc một vài đoạn trích như trong Như tâm thần hoang tưởng của Đỗ Lê Anh Đào:

“Ám ảnh từ ngày gặp anh. Mùi đàn ông trên người anh vừa quen lạ. Lần đầu xốc vào mũi bất ngờ lúc anh đè hôn, tôi nghe mình ngớ ngẩn. Tuổi thơ như kẻ đã đi xa trở về. Làm tôi lẫn lộn, rối rắm, yêu anh, hận anh. Yêu anh. Em yêu anh, thật tôi yêu anh kinh khủng bây giờ. Thèm hơi anh nồng nặc phà vào miệng, tấn công chiếm đọat. Thèm người anh nặng đè lên tôi, ngã ngửa, dang ngang. Thèm tay anh bóp chặt cổ, ngột ngạt, tổn thương. Chúa ơi, đừng tha tội con, hãy quên linh hồn con, cho nó bay chờn vờn, ngắm nhìn thể xác con được dục tình ép chết. Văn ơi, nói lời ấy, nói ngay lập tức cho em nghe, Where is he? Bring him back, bring him back now. Tôi hét thất thanh, tuyệt vọng”.

Chữ nghĩa đuổi nhau, xô đẩy, không theo kịp những rung động nhục tính cứ thế dâng lên, tràn lan… Những dòng chữ trên là của một nhà văn, hay dòng chữ của một người con gái khát yêu cuồng vọng? Là của tác giả hay nhân vật truyện?

Một đoạn trích khác trong truyện ngắn Câm của Lê Quỳnh Mai:

Thì cũng là lúc anh quay người trườn lên kéo thân thể tôi ập xuống. Như con báo đen vừa bắt được mồi. Tới tấp. Hung hãn. Điên cuồng. Chúng tôi bắt đầu vẽ số sáu ngược trên hai thân thể không còn mảnh vải. Và cứ thế. Tôi nghe như mình đang bay chơi vơi giữa không khí. Cho đến khi mang cảm giác bầu ngực trần căng cứng vì những dấu răng sắc nhọn. Cho đến khi hai đứa cùng quay đầu trườn lên nhau. Nhồi lên. Ép xuống. Không đau thốn. Như lần đầu tiên bị vật cứng đâm thật mạnh vào nơi chốn ấy. Cảm giác hoan lạc dâng lên tột cùng. Sóng nhấp nhô. Tôi đón nhận lớp sóng mầu trắng đục đang tràn lan trong phần thiếu. Rồi anh hôn lên đó. Tôi cũng hôn lên phần thừa của con báo đen. Như anh dạy. Chập chững đón nhận thêm bài học tự nhiên của hai giống khác nhau. Tò mò. Thích thú. Thèm muốn. Anh dạy cho tôi biết trong thân thể mình có bản năng đòi hỏi và dâng hiến. Anh cũng hiểu được ngôn ngữ câm. Khi những ngón tay bắt đầu di chuyển trên thân thể còn chưa dứt cơn khát trong buổi trưa hè nóng như lửa đốt.”

Trong đọan văn trên, người viết băn khoăn tự hỏi nhà văn viết về những rung động của chính mình hay viết thay cho nhân vật truyện? Nếu không cùng một lúc có những xung động từ chính mình, đoạn văn đã hẳn là khác? Phải chăng cái tôi trong truyện thật cần thiết, bởi vì nó nói lên những điều mà chính nhân vật truyện không có cơ hội phô diễn?

Nguyễn Thị Thanh Bình. Nguồn vantuyen.net

Có một hai trường hợp, xin được trích dẫn ra dây để thấy được tính cách trộn lẫn giữa tác giả và nhân vật truyện tạo ra những trường hợp lưỡng tính, hàm hồ về thực giả của nhân vật truyện. Nhà văn Nguyễn thị Thanh Bình trong Thiên thần trong bóng tối có mô tả cảnh bị Mỹ da đen hãm hiếp như sau:

Hắn là một gã đàn ông xa lạ, nhễ nhại trần truồng đang cắm sâu vào người cô một thứ bộ phận cứng đơ như một thanh sắt lạnh. Cô càng kêu lên vì đau đớn, hắn càng kêu lên vì khích động. Hắn có rướn người lên ngàn năm cũng không bao giờ tìm được những khít khao trên người cô…Vậy sao hắn còn trồi lên như sóng dâng, để cô rờn rợn những luồng khí. Những cố gắng kháng cự cuối cùng rồi cũng vô ích, cô biết từ đây cô sẽ khó lòng yêu nổi đàn ông. Đàn ông, cô phải mất bao nhiêu suối, bao nhiêu sông, bao nhiêu biển mới rửa hết được những tinh khí đã lỡ bắn tóe vào người cô?”

Cái lưỡng tính của con người, muốn và không muốn, đam mê và chối từ lúc nào cũng có thể xảy ra… Điều đó cũng tìm thấy trong truyện Chuyển mùa của Nguyễn thị Thanh Bình. Vì thế, nếu đọc kỹ từng chữ, từng câu trong đoạn văn vừa kể trên… Tôi tự hỏi đọan văn chót có đủ mức độ khả tín, níu kéo chúng ta đứng về phía tác giả không? Tôi muốn nêu ra như một câu hỏi tranh luận về mức độ xâm nhập của tác giả vào nhân vật truyện, nói thay và cứu gỡ cho nhân vật truyện khỏi rơi vào tình trạng đồng thuận với hành vi của tên Mỹ da đen.

Phim Rashomon của Nhật

Có lẽ hay nhất, tôi xin mượn câu chuyện phim Nhật Rashomon, chiếu năm 1950 của đạo diễn Akira Kurosawa. Đây là một trong 10 bộ phim được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử phim ảnh. Câu chuyện trong phim Rashomon đơn giản, nhưng lại thật phức tạp, kể lại một người phụ nữ tên Machiko Kyo bị hãm hiếp sau đó có xảy ra vụ thảm sát một người là Masayuki Mori, có thể là do tên cướp Toshiro Mifune giết. Chuyện xảy ra tại cái cổng Rashomon, nơi có một số người đang trú mưa. Một trong những nhân chứng là một người thợ cưa gỗ Takashi Shimura và một nhà tu Minoru Chiaki. Nhà tu hành đã tìm cách kể lại câu chuyện đã xảy ra thế nào. Có rất nhiều chi tiết được kể lại giữa các nhân chứng có vẻ trùng hợp, nhưng cũng không thiếu sự khác biệt.

Phần tên tướng cướp nhận tội đã giết người, nhưng từ chối nhận đã hãm hiếp người đàn bà đó. Bởi vì hắn nại ra là trong lúc hãm hiếp, hắn nhìn ra trong mắt bà ấy tỏ ra có sự ưng thuận. Nhiều người xem phim đó cũng không thể đưa ra một kết luận rõ rệt nào, chỉ có thể có một sự thật gần đúng mà thôi… Đọc đoạn văn của Nguyễn Thanh Bình nêu trên, nhà văn đã thất bại nếu muốn diễn tả sự tàn độc của vụ cưỡng bức. Tôi chỉ muốn nói rằng, nhà văn, tác giả và nhân vật truyện trong trường hợp này đã dẫn đưa người đọc đến một tình huống khó xử và bối rối như cách đây 50 năm về trước trong Rashomon.

 Cái tôi trong truyện cuối cùng vẫn có thể là cái bẫy sập, hoặc cái vành móng ngựa cho thấy nhà văn đang đứng ở vị trí nào trong câu chuyện?

Xem tiếp phần 2

11 BÌNH LUẬN

  1. Ngay đất Tp Hồ Chí Minh, ba người viết nhiều về hậu hiện đại là Bùi Văn Nam Sơn, Nhật Chiêu và Inrasara, không ai học cái sai về hậu hiện đại từ Nga cả

    Them created những cái sai hoàn toàn của riêng mình

  2. Nhà văn nữ Mít đặc và xì tin đ.

    Nói nào ngay, người Việt thể trạng nhỏ. Ít chuộng sinh hoạt ngoài trời. Thích được khen nịnh, và ăn uống thích các thứ nào độc lạ khoái khẩu. Thành ra dzốn liếng nói trắng ra là “bộ đồ nghề” cũng khiêm tốn thôi nha. Các người mẫu của ma dze in Mít đặc không thể sánh với Âu Mỹ đã đành, mà so với trong vùng cũng không hơn Cambodia hoặc Philippines.

    Nhưng tại sao trước đây lại có hiện tượng nữ Mít đặc ta viết văn viết truyện cái dzụ đ. đéo rất hừn hực rền rĩ oằn oại?

    Thật ra chỉ đánh dzõ miệng thì nhiều chứ nghệ thuật văn chương không bao nhiu. Chớ biết viết cái gì bây giờ ngoài tứ khoái ăn ngủ đ. ỉa. Đời còn gì niềm vui nữa đâu mà viết. Nhà gần đường rầy xe lửa mỗi lần xe nó chạy ngang nữa đêm rầm rầm hú còi thì vợ chồng lại thức giấc không biết làm gì, lại ôm nhau đ.

    Mặt sao ngao dzậy. Thế thôi. ha ha ha !

  3. Cái Tôi trong truyện ?

    Truyện nào mà không có cái tôi. Truyện nào có chữ “tôi” thì có cái tôi, ego.

    Nói đúng phải nói là những “nhân vật” characters hiện diện trong tiểu thuyết hoặc truyện ngắn. Yếu tố nhân vật là yếu tố hàng đầu của một tác phẩm truyện. Tiểu thuyết hay truyện ngắn thành công là thành công phần lớn ở nhân vật. Nhân vật phải có khuôn mặt, tiếng nói, tính cách và hành trạng. Người đọc say mê một cuốn truyện là gì, là ở những nhân vật.

    Characters are the people who are involved in the story. Characters can be major or minor, and static or dynamic. Nhân vật là những con người liên quan trong một câu chuyện. Nhân vật có thể chính hoặc phụ, tĩnh hoặc động.

    Trong một xã hội như xã hội VC tác phẩm văn nghệ hoàn toàn không có nhân vật, characters, với hành trạng tính cách rõ ràng. Tại sao? Rất đơn giản vì căn bản cái xã hội đó tiêu diệt tính cách nội tại của cá nhân con người.

    • Theo cách đọc của riêng bản thân, họ nhận thức “sai” về what constitutes a human being, nên đúng, có sự hiện diện của cá nhưn, và cá nhưn đó có 1 khát vọng chứng tỏ mình là con người hơn con người, trở thành 1 perverted version of Ubermencsh. Nhưng vì hoàn toàn nhận thức “sai” về what constitutes a human being, nên những Ubermensch, nhân vật, đó hành xử như những con thú vật, ngoài bản năng ra, not much to tell. Đọc những “tác giả” đã được giải Văn Việt như Liêu Thái thì sẽ thấy . Tớ ít khi tởm lợm khi đọc văn, believe you me, i read quite a bit, và thường đọc hết, ngoại trừ những thứ so predictable & văn học cách mạng thì bỏ hổng đọc nữa . Nhưng Liêu Thái … that xít i cant finish the Đamn thing, vì quá tởm lợm ở mức khốn nạn đến nhầy nhụa

      Nhưng trích dẫn thì có, i mean its a Phúc Kđinh gold mine cho những gì có thể được xem là khốn nạn

  4. Thử tưởng tượng nếu không có nhạc vàng thì đất nước VN cộng sản ngày nay họ sẽ hát nhạc gì?

    Có bao nhiêu tác phẩm ra đời thời việt cộng cầm quyền tới nay được gọi là đáng để đọc?

    Ngoài những sách báo và âm nhạc thời tiền chiến đã có trước, thời chiến tranh, Miền Nam của VNCH để lại rất nhiều sách và nhạc, kể cả truyện dịch và nhạc chuyển lời, nhưng kể từ cái thời bình và thống nhất việt cộng cầm quyền cai trị thì chẳng có được một bài nhạc nào hay một tác phẩm nào đáng nghe và đáng để đọc. Nếu có để thưởng thức thì nội dung phải là đấu tố, phải mang tính đảng, xã hội chủ nghĩa, và phải có cái màu đỏ đỏ trong nội dung nhạc và truyện.

    Viết truyện ngắn cực dễ nhưng cũng cực khó. Nó dễ vì chỉ cần viết vài trang giấy với một thời gian rất ngắn đến độ chỉ cần vài ngày hay thậm chí chỉ vài giờ khi cảm hứng dâng lên, nhưng lại khó là phải lựa từng con chữ và viết cô động lại mà đầy đủ như viết một truyền dài. Và nhất là viết làm sao độc giả đọc mà phải đọc từng con chữ vì sợ đọc lướt sẽ không còn chữ để đọc.

    Thời việt cộng chỉ có sách báo tình dục là nhiều, theo nhu cầu hay theo chính sách của đảng là để thay thế cho cái màu đỏ đấu tranh mà nay đã không còn ai muốn đọc. Họ bây giờ lại thích truyện đọc về đêm, cực ngắn, rồi thực hành, để chẳng còn sức đâu nữa mà đấu tranh đòi hỏi tự do hoặc chống lại chế độ.

    • “Thử tưởng tượng nếu không có nhạc vàng thì đất nước VN cộng sản ngày nay họ sẽ hát nhạc gì?”

      Nhạc Đỏ

      “Có bao nhiêu tác phẩm ra đời thời việt cộng cầm quyền tới nay được gọi là đáng để đọc?”

      Tưởng Năng Tiến & Nguyễn Đức Tùng đang giới thiệu cho dân hải ngoại nền văn học XHCN. Tưởng Năng Tiến chuyên về Nguyên Ngọc, Nguyễn Đức Tùng thuộc loại ăn tạp nên giới thiệu được khá nhiều người, 1 trong những là Hoàng Phủ Ngọc Tường . Đinh Từ Bích Thúy của da màu giới thiệu Lâm Thị Mỹ Dạ, vợ Hoàng Phủ Ngọc Tường, bên này in Tạ Duy Anh với đoạn trích dẫn

      “Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến trận”

    • “Nếu có để thưởng thức thì nội dung phải là đấu tố, phải mang tính đảng, xã hội chủ nghĩa, và phải có cái màu đỏ đỏ trong nội dung nhạc và truyện”

      Đừng có tưởng nhá . Chính vì những thứ này mà trí thức hải ngoại kiu gọi “hợp lưu”, tức là đưa văn hóa hải ngoại về đứng dưới lá cờ Ngôi Sao Cô Đơn của Đảng, rùi Tưởng Năng Tiến mến mộ Nguyên Ngọc, dân hải ngoại, in turn, lại mến mộ Tưởng Năng Tiến … Tất cả chui vào cái Đèn Cù mà xoay tua . Ai nói động tới cái Đèn Cù đó đều là Tàu Chệt hay gián điệp của Trung Cộng hít chơn hít chọi lun

      Tren bi giờ là yêu Đảng, albeit one weird-arse way à la xì tai Hồ Cương Quyết . Its love nevertheless. Đừng có phá thối, hông thui tụi nó lại cho mút cacx bi giờ

  5. Tiểu thuyết, tân tuyện, và truyện ngắn
    Novels, short stories, and novellas

    Người Việt Nam đa số vẫn còn lấn cấn chổ này. Họ nghĩ là truyện ngắn thì hổng ngon bằng truyện dài. Hổng có “trình độ” bằng truyện dài bla bla bla.

    Đó là do người VN chấp nhứt vào các tĩnh từ dài và ngắn. Thật ra Trong văn chương có hai thể loại viết. Văn vần và văn xuôi. Văn vần là thi ca poetry. Văn xuôi là tiểu thuyết, báo chí , nhật ký, hồi ký, sách giáo khoa, truyện ngắn, và tân truyện. Riêng thể loại văn xuôi thuộc sáng tác với óc tưởng tượng fictional prose thì gồm có tiểu thuyết novels, truyện ngắn, short stories, và tân tuyện novellas.

    Tóm lại, về mặt văn chương literaure, tiểu thuyết là tiểu thuyết, truyện ngắn là truyện ngắn, thi ca là thi ca, phóng sự là phóng sự, bút ký là bút ký. Không có cái dzụ trình độ hay không trình độ. Nghệ thuật chỉ có đẹp hay không đẹp hay hoặc là dở thế thôi.

    Người chạy 1000 mét và người nhảy cao 2 mét ai “trình độ ” hơn ai? Dân Mít đặc ngốc quá ! ha ha ha !

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên