20 năm triết học Tây Phương ở Miền Nam Việt Nam 1955 – 1975 (2)

11

Tiếp theo phần 1

B. Trần Thái Đỉnh, người gieo trồng triết hiện sinh cùng với vô số trí thức ở bên ngoài đại học.

Nhắc tới Trần Thái Đỉnh, người ta nghĩ tới ông như một nhà giáo hơn là một nhà tư tưởng hay một triết gia. Ông có lối viết dản dị hoá vấn đề mà không trở thành thông tục, thêm có mạch lạc và có sư phạm. Đọc ông, người ta có thể hiểu được những vấn đề triết học khúc mắc và cao diệu. Đó là một thứ sách giáo khoa triết học như nhận xét của Bùi Văn Nam Sơn khi viết về

Trần Thái Đỉnh: Những tác phẩm của giáo sư Trần Thái Đỉnh là những cuốn sách có tính chất giáo khoa để người đọc dễ dàng đi vào lãnh vực triết tây. Đó là những cuốn sách gối đầu giường cho những ai muốn tìm hiểu một cách căn bản và hệ thống các tác giả và các chủ đề về triết học.

Đọc ông là nắm bắt được cái gì. Ông là người có công đầu trong việc gieo trồng, giới thiệu một số triết gia như Descartes với Triết Học Descartes, Những suy niệm Siêu Hình Học và Phương pháp luận, rồi đến Triết học Kant, Triết học Hiện sinh, Triết học nhập môn, Khái niệm bản ngã trong tư tưởng Triết học Phật giáo nguyên thủy (Luận án tiến sĩ, 1958.). Đặc biệt cuốn Triết học

hiện sinh xuất bản năm 1969 do nhà xuất bản Thời Mới, mà theo ông Tràng Thiên (tức Võ Phiến), cho biết cuốn sách bán hết ngay 2500 cuốn, trong khi đó cuốn của Lê Thành Trị bán không được vì viết khó hiểu. Xem ra như thế thì triết không phải lúc nào cũng tối tăm khó hiểu đâu. Nó cũng tùy thuộc vào người viết. Có người viết dễ đọc, có người viết khó đọc.

Ông còn ký dưới bút hiệu Trần Hương Tử gồm một số bài được đăng liên tục trên Bách Khoa như:

Bộ mặt của Triết học Hiện sinh. Bách Khoa, số 114/1961

Những đề tài Triết học Hiện sinh, số 115

Hai ngành chính của 3 Triết Học Hiện sinh, số 16

Kierkegard, ông tổ Triết Học Hiện sinh chính thức, số 117-118

Nietzsche, Hiện sinh vô thần, số 119-120

Husserl, ông tổ văn chương Triết lý Hiện Tượng Học, số 121

Phương pháp Hiện Tượng Học, số 122

Sartre, Hiện sinh và Siêu Việt, số 123

Triết Gia và Hiện Sinh, số 124

Siêu Việt thể của Jaspers, số 125-126-127

Marcel Hiện sinh và Huyền Niệm, số 129-130-131

Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lý, số 132

 

Nhân sinh quan của Sartre, số 133-134/1962

Tổng kết về Phong Trào Hiện Sinh, số 135-136

Heidegger và bản chất của thi ca, số 169

Triết Hiện sinh và chính trị số 264.

Yếu tính của tha nhân. Trần Thái Đỉnh, tạp chí Đạo Học Huế

Giới thiệu triết học Merleau Ponty. Tạp chí Đại học Huế.

Heideigger và bản chất của thi ca.

Những bài báo trên đã giúp độc giả bên ngoài giới sinh viên đại học ít lắm hiểu được những đường nét chính của chủ nghĩa hiện sinh. Và cũng nhờ vào những bài báo đó giúp người đọc hiểu rằng triết hiện sinh vỉa hè đã không cùng chỗ đứng với triết học hiện sinh trường ốc.

Ngày nay, nhìn lại những công trình trước tác của ông không khỏi nghĩ rằng, ông là người trực tiếp góp phần phổ biến triết thuyết ấy đến tay một số độc giả thuộc giới trung lưu thành thị. Cùng với ông có một số những người không thuộc giới chức đại học chuyên ngành, nhưng đã đóng góp bằng rất nhiều bài báo dưới hình thức khảo luận hay dịch thuật. Đó là quý ông Trần Bích Lan, Vũ Đình Lưu, Trần Phong Giao, Trần Thiện Đạo, Tam Ích, Đỗ Long Vân, Lê huy Oanh, Đặng Tiến, Lê Tuyên, Lữ Phương, Khải Triều, Cao Thế Dung, Phùng Thăng, Phùng Khánh, Cô Liêu, Đặng Phùng Quân,Thích Đức Nhuận, Nghiêm Xuân Hồng… Trong số trên, có người viết ít, chỉ một hoặc hai bài, có người viết nhiều, có người viết chỉ để chống đối, đả phá như Cao Thế Dung, Lữ

Phương, Khải Triều. Những trường hợp đả phá như thế, một cách vô tình cổ xúy cho phong trào phổ biến triết thuyết ấy. Gây thêm sôi động là một hình thức cổ xúy gián tiếp. Có người dùng các tư tương của các triết thuyết đó soi dõi cho những nhận định về văn học hay triết lý Dông Phương như Lê Tuyên,Tam Ích, Đỗ Long Vân, Tuệ Sĩ. Những người viết đều, viết nhiều có ông Trần Thiện Đạo ở Pháp, Trần Phong Giao, Vũ Đình Lưu.

Phải nói họ đã làm đầy đủ chức năng gây trồng của một người trí thức.

Sự đóng góp qua báo chí đã giúp vào việc phổ biến rộng rãi triết học hiện sinh, nhất là hiện sinh của J P Sartre.

Nguyễn Văn Trung với các bài sau đây:

– Vấn đề giải thoát con người trong Phật giáo và tư tưởng của J.P Sartre.

– Những tình bạn dang dở.

– Văn chương và siêu hình học.

– Thi ca và triết học.

– Văn chương hiện sinh.

– Luân lý và văn học.Trở lại vấn đề luân lý và văn học.

– Sartre trong đời tôi.

– Cái nhìn hay đám cưới với cuộc đời.

– Tưởng niệm Camus.

– Vài cảm nghĩ về tình cảm phi lý của kẻ lưu đầy.

– Cuộc đời như một tra hỏi.

– Đọc vũ trụ chữ nghĩa của J.P Sartre.

– Quê hương và lưu đày, giới thiệu Camus. Người phản kháng.

– Những tình bạn dang dở.

– Triết học hiện sinh, giờ thứ 25 của của triết học Tây phương.

– Dịch và giới thiệu: Người đàn bà ngoại tình của của Camus.

– Chủ nghĩa hiện sinh (trả lời phỏng vấn) của Trần Thái Đỉnh.

– Triết học hiện sinh. Điểm sách của Trần Thái Đỉnh.

– Quê hương và lưu đày. Nguyễn Văn Trung giới thiệu

– Người phản kháng.

Như đã trình bày ở trên, những bài báo của Nguyễn Văn Trung gây ra khá nhiều tranh luận và là cái đích duy nhất để nhiều tác giả khác nhắm vào. Nhiều bài báo có tính cách truy chụp, viết dưới góc cạnh chính trị hay luân lý và cho thấy chẳng có chút hiểu biết gì về triết lý hiện sinh. Hoặc là đã không phân biệt được loại triết lý hiện sinh vỉa hè vốn chẳng có liên quan gì đến Sartre hay

Heideigger. Hoặc là chỉ lưu ý tới phần văn chương tiểu thuyết mà không cần biết đến triết thuyết ấy. Nhiều bài có tính cách diễu cợt bên lề. Theo Trần Phong Giao, nhờ những bài báo đó, báo bán chạy, có lúc được 15 ngàn số hồi 1967-1968 đến chẳng cần quảng cáo hay tài trợ của chính quyền.

Nhưng cũng cho thấy được rằng, có một không khí sôi động tạo ra những tranh luận đôi khí hăng say quá đà, nhưng nó cũng chứng tỏ tinh thần tự do phát biểu, tranh luận công khai ở thời kỳ đó.

Sau đây là một số bài viết trong thời kỳ đó:

– Nhân đọc bài Luân lý và văn học của ông Nguyễn Văn Trung, từ thái độ cởi mở đến sự phủ nhận luân lý trong lĩnh vực văn học. Bùi Tuân.

– Một thái độ khó hiểu của ông Nguyễn Văn Trung Văn Đàn số 23, 12-11-1960

– Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong văn nghệ. Bút Nhọn

– Tán thành hay phản đối văn chương hiện sinh. Anh Chức.

– Lẳng lặng mà nghe. Kính dâng hương hồn sống của các đồ đệ JP. Sartre. Sa Nhăng.

– Cười nụ. Hiện sinh. Nam Phương Sóc

– Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương. Cô Thùy Dương.

– Thanh niên hư hỏng và thuyết hiện hữu của J.P Sartre. Vô Vi

– Theo dõi một cuộc tranh luận(về luân lý và văn học). Quốc Minh.

– Giải đáp thắc mắc những con của Sartre, Nguyễn Văn Trung. Nguyễn Mạnh Côn.

– Đặt lại giá trị và giới hạn của triết lý J.P Sartre. Phạm Công Thiện

– Nghĩ về văn chương hiện sinh. Thế Nguyên

– Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố. Cao thế Dung.

– Văn nghệ, văn hóa qua những hình thái thông ngôn nô dịch. Cao Thế Dung.

– Từ văn hoá “cải lương” đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang. Khải triều.

– Mại bản văn hoá và mấy hình thái văn chương nô dịch. Cao thế Dung

– Hiện tượng dâm ô đồi trụy trong văn học hiện nay. Tin Văn

– Đọc tác phẩm của Chu Tử

– Văn học Hiện tượng luận có phải là văn học khiêu dâm không. Tam Ích

– Sartre và Heideigger, các ông là ai, và bây giờ các ông đi đâu? Tam Ích.

– Sự thất bại toàn diện của Heidegger và con đường tư tưởng VN. Phạm Công Thiện.

– Triết học hiện sinh và những người cầm bút ở VN. Nguyễn Trọng Văn, phê bình dưới quan điểm nhìn từ chủ nghĩa Mác xít

– Hoàn cảnh những người cầm bút miền Nam trước và sau 1963. Nguyễn Trọng Văn.

– Từ Hiện sinh đến tính dục.

– Những con hoang của Nguyễn Văn Trung. Nguyễn Trọng Văn.

– Triết lý ảo tưởng hay ảo tưởng triết lý. Nam Hà Trung.

C. Trần Thiện Đạo.

Ông Trần Thiện Đạo, một trí thức ở Pháp là một cây bút viết nhiều, nhằm giới thiệu trào lưu hiện sinh với những bài viết dịch thuật có giá trị. Nhưng rất tiếc lại ít được người trong nước lưu ý tới.

– Camus, J.P Sartre.

– Cuộc tranh luận về Văn nghệ giữa Sartre, Y. berger, Simone.

– Sartre tỏ rõ thêm về quyển “les mots” bài của J.Piatier do Trần Thiện Đạo dịch.

– Tìm hiểu Đạo đức Sartre.

– J.P Sartre và giải Nobel

– Tiền Phong là gì của JP Sartre do Trần Thiện Đạo dịch.

– Gió về Djémila. Camus

– Kín cửa (Huis clos).

– Tìm hiểu về kịch LES MOUCHES của J.P Sartre

D. Trần Phong Giao.

Cũng như Trần Thiện Đạo, ông đóng vai trò giới thiệu triết học hiện sinh bằng cách dịch thuật phần triết lý hiện dưới dạng tiểu thuyết, nhất là dịch các truyện của Camus.

– Camus. Thân thế và tác phẩm.

– Những người trung thực (dịch Les Pestes) của A.Camus.

– Tại sao tôi dịch cuốn “Guồng máy”.

– Không một nấm mồ (Morts sans sépultures)

– Guồng máy (L’engrenage)

– Sự Đã rồi (Les Jeux sont faits). Trần Phong Giao và Nguyễn Xuân Hoàng dịch.

– Les séquestrés d’Altona

Cũng xin trân trọng nhắc đến tác giả TPG, một người đã cống hiến cuộc đời cho việc viết báo và giới thiệu văn học nước ngoài. Cũng như giáo sư Trần Thái Đỉnh, nay ông cũng không còn nữa ở trên dương thế này.

Những bài báo như trên được đăng mỗi tháng như những món ăn tinh thần không thiếu được của giới sinh viên trí thức thành thị. Người ta chờ đợi, tìm đọc, nghiền gẫm, tranh luận với say mê thích thú.

E. Trần Văn Toàn, người trình bày triết học Mác xít, Lý Chánh Trung, người xử dụng triết học Mác cho những xu hướng chính trị cách mạng về một một chủ nghĩa xã hội không Cộng Sản.

Mới đây, có một tranh luận nhỏ giữa anh Nguyễn Quốc Trụ và Trần Trung Đạo về sách của chủ nghĩa Mác ở miền Nam. Theo như tôi được biết thì các sách căn bản về chủ nghĩa ấy đều có trong thư viện Đại học Đàlạt. Có thể mượn và đọc thoải mái, chỉ không có sức mà đọc. Nói như thế đế thấy tinh thần tự trị, tinh thần tự do tư tưởng ở miền Nam như thế nào. Nó khác miền Bắc và ưu việt hơn miền Bắc vì nó tôn trọng sự tự do tư tưởng. Riêng Trần Văn Toàn thì có ba cuốn sách bàn về chủ nghĩa ấy là: Hành trình đi vào Triết học, Xã hội và con người và cuối cùng là cuốn Tìm hiểu triết học của Karl Marx.

Cuốn đầu, dù chỉ là cuốn triết học nhập môn dùng cho sinh viên năm dự bi văn khoa ở Huế, vào năm 1961-1962. Có năm chương thì chương hai với tựa đề Hiện thân con người ở đời dựa trên cơ sở học thuyết Karl Marx. Với những đề tài như hiện thân trong vật giới, hiện thân trong nhân giới, xã hội lý với tương quan ông chủ-thằng ở. Chính là những khởi điểm suy nghĩ đi vào triết học Mác.

Trong cuốn Xã hội và con người, một lần nữa ông đào sâu thêm về thân phận làm người với những giao ngộ, tư do rồi cạnh tranh sinh tồn giữa ta và người khác. Từ chỗ đó đi đến kết quả tha nhân, kẻ làm mất bản thân tôi đến ý thức nô lệ và vấn đề ý thức hệ.

Cuốn thứ ba dặt vấn đề trực diện với việc:Tìm Hiểu triết học của Karl Marx. Trong đó chương hai quan trọng nhất nói về Vong Thân với các loại vong thân và ý thức vong thân cũng như vấn đề ý thức hệ Cộng Sản.

Cần nhấn mạnh để tránh hiểu lầm là Trần Văn Toàn trình bày học thuyết Mác như một triết lý Mác Xít khác hẳn lối trình bày kinh điển hay nhìn nó như một chủ nghĩa Mác- Lênin. Vì thế, cách trình bày của ông không có tính cách giáo điều, tính áp đặt. Tất cả những sách trên dù chuyên môn, nhưng theo tôi, đọc khá dễ hiểu và lý thú. Khi những cuốn sách đó được in ra, tôi đã đọc và bắt được những nội dung, những thème chính cũng như những ý tưởng mà tác giả muốn trình bày. Hơn nữa, những sách trên đã kịp thời đáp ứng tình thế xã hội và chính trị lúc bấy giờ vào cuối thập niên 60. Tóm lại, Trần Văn Toàn đã trình bầy cặn kẽ, mạch lạc, hệ thống tư tưởng Mác ở phạm vi triết học và cũng tránh đi vào những phạm trù lôgích như định đề của chủ nghĩa ấy.

Cho đến nay, đọc lại những sách đó, tôi vẫn cảm thấy thích thú và tâm đắc hơn những cuốn sách do chính những người Cộng Sản viết. Ông là một trong những người duy nhất giúp trí thức miền Nam hiểu được một phần triết lý của Mác như thế nào. Về điểm này, không ai hơn ông được.

F. Lý Chánh Trung

Nói đúng ra, Lý Chánh Trung là người duy nhất dạy triết mà không dạy triết. Ông dạy triết hay viết triết chỉ để biện minh cho những tư tưởng xã hội chính trị mà ông cưu mang ấp ủ. Vì vậy, chẳng bao giờ ông có tham vọng giảng dạy triết thuần túy theo lối trường ốc. Ông cũng chẳng trình bày mạch lạc bất cứ triết thuyết nào, ngay cả học thuyết của Mác. Trong các bài giảng của

ông như Bạo Động và lịch sử trong môn Đạo Đức học hay Nhiệm Vụ học cho các lớp dự bị Chính trị kinh doanh thì đều bàng bạc tư tưởng triết học của Mác. Những bài viếr đó đề cập đến vấn đề bạo động giữa con người, vấn đề đạo đức và cách mạng, vấn đề biện chứng giữa ông chủ-thằng ờ, vấn đế giai cấp tư bản và vô sản, vấn đề bất bạo động theo quan điểm của Gandhi và sau cùng quan trọng nhất là vấn đề làm cách mạng xã hội không cộng sản.

Tư tưởng chủ đạo của ông là thực hiện một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không Cộng Sản.

Có nhiều khuynh hướng khác nhau về một cuộc cách mạng không Cộng Sản như nhóm của thầy Nhất Hạnh với trường Thanh niên phụng sự xã hội, nhóm của Mỹ với Phong trào học đường mới v.v… Ở đây chỉ trình bày nhóm Hành Trình với Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung.

Thật ra, danh từ Cách mạng Xã Hội chủ nghĩa Không Cộng Sản chỉ xuất hiện từ năm 1964. Dựa vào tình thế bế tắc lúc bấy giờ, với cuộc nội chiến tương tàn, không lối thoát. Vấn đề ai thắng ai chẳng giải quyết được gì? Người trí thức bấy giờ thất vọng cả hai phía. Phía Cộng Sản thì chủ thuyết Mác xít với Duy vật sử quan đã tỏ ra lỗi thời. Những kinh nghiệm quá khứ cho thấy chủ

nghĩa đó quá tàn bạo và khắc nghiệt như đã xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác.

Nội bộ các nước đó chia rẽ như trường hợp Liên Xô và Trung Quốc. Về kinh tế cho thấy các nước theo XHCN đều rơi vào tình trạng lạc hậu, thụt lùi. Đối với phe Tự Do cho thấy chế độ tư bản chỉ là duy trì cơ cấu bóc lột chuyển từ hình thức thực dân cũ sang thực dân mới. Tư bản Mỹ duy trì tình trạng chiến tranh ở VN mà nguy cơ là chắc chắn không thể thắng được.

Quan điểm này cho rằng có thể có một đường lối thứ ba. Đường lối không chấp nhận cả hai khối Tự Do và Tư bản. Vì cả hai đều có những nhược điểm. Vì thế, người ta có thể thực hiện một cuộc cách mạng xã hội bên ngoài đường lối Cộng Sản. Theo Lý Chánh Trung, Các nước Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh chỉ có thể thoát khỏi tình trạng tủi nhục của sự lệ thuộc, đói rách, thối nát, bất ổn khi nào có can đảm thay đổi toàn diện những cơ cấu mục nát do chế độ thực dân để lại, dám thắt lưng buộc bụng để tạo dựng những cơ sở vững chắc hầu có thể tự mình giải quyết những vấn đề của mình. Nghĩa là phải phá bỏ cơ cấu bạo động bóc lột do thực dân để lại. Trong lời nói mở đầu cuốn Cách Mạng và Đạo Đức, Lý Chánh Trung viết: “Tại các nước chậm tiến, cách mạng xã hội là một vấn đề sinh tồn, một vấn đề danh dự’’. Tại miền Nam, thay vì làm cách mạng xã hội, người ta chống Cộng. Nhưng thực ra chỉ có một cách chống Cộng hữu hiệu là làm cách mạng xã hội. Các đảng phái, nhà cầm quyền chỉ biết chống Cộng, nhưng lại duy trì cơ cấu thối nát thay vì làm cách mạng cơ cấu. Không thể tin vào những những giải pháp quân sự hay sự can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Miền Nam chỉ còn một lối thoát là làm cách mạng xã hội. Muốn có một chính quyền mạnh, vừa phải đối phó với Cộng Sản, vừa với Mỹ thì điều kiện tiên quyết là phải được lòng dân. Muốn có hậu thuẫn trong dân chúng, phải làm Cách mạng Xã Hội. Lý Chánh Trung CMVĐĐ, trang 103.

Đặc biệt về điểm này, Lý Chánh Trung đã để hết tâm huyết khai thác, trình bày quan điểm của ông trên tờ Trình Bày thời đó. Người ta biết đến Lý Chánh Trung rất nhiều, chính là ở giai đoạn này. Đặc biệt, ông viết cuốn Tìm về dân tộc mà mụch đích chỉ là cổ xúy cho một cuộc cách mạng xã hội, lấy dân tộc làm căn bản.

G. Lê Tôn Nghiêm: Kẻ gieo trồng không được mùa.

Lê Tôn Nghiêm có một đời sống thật dản dị và có một tấm lòng say mê triết học đến khó ai sánh bì. Cả đời ông lăn lộn, sống với nó. Ông đọc và say mê mỗi khi khám phá ra điều gì mới. Ông hăng say nói ra. Nhưng trong cách đọc, cách viết, gần như ông đánh vật với chữ nghĩa. Ông trăn trở, ông kiếm tìm, mày mò, tra cứu học hỏi. Nhưng cách trình bày lan man, không nắm rõ khiến ông lúng túng vụng về khi giảng dạy cũng như khi viết. Ông đã dịch và giới thiệu Karl Jasper với cuốn Triết học nhập môn, Trung tâm văn hóa Đông tây xuất bản. Cuốn sách rất hay như thứ sách gối đầu giường của giới sinh viên. Ông cũng là tác giả cuốn sách mỏng: Đâu là căn nguyên tư tưởng. Hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger. Nxb Trình Bày, 1970. Rồi Heideigger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương. Lá Bốí 1970. Triết gia người là ai. Thế nào là tính thể con người. Tư tưởng với Nghệ thuật. Vấn đề con người trong tư tưởng K. Jasper. và sau đó là bộ Lịch sử triết học Tây phương 3 cuốn, nxb tp Hồ Chí Minh. Rất tiếc, bộ sách lịch sử này mới xb được 3 cuốn, đi hết được phần triết học thời Trung cổ với triết học các giáo phụ và triết học kinh viện. Viết cho đầy đủ cả bộ, chắc cần cả 10 cuốn như thế nữa nữa. Ông mất đi coi như đứtgánh giữa đường, dang dở nhiều truyện, hiểu lầm, ngộ nhận đến phiền muộn cũng không thiếu.

Trong số các triết gia hiện sinh, ông say mê thần phục và cũng một lẽ đó ông nhìn thấy tính cách phá sản trong tư tưởng của Heidegger. Nhưng ông đã không thành công mấy trong việc chuyển tải những ý tưởng hay những chủ đề nòng cốt của Heidegger đến giới sinh viên. Ảnh hưởng của các triết gia này vì thế cũng không dược chú trọng đúng mức và bản thân ông cũng không gây

được tiếng tăm gì nơi giới Sinh viên.

  1. Các giáo sư triết dạy trung học.

Nói đến triết học Tây Phương ở miền Nam không thể không nói đến đội ngũ các giáo sư triết ban tú tài 2. Họ là thế hệ thứ hai được đào tại tại ba trường là Văn Khoa Sàigòn, Đại Học sư phạm Đàlạt và Đại học Huế. Số lượng các giáo sư này cứ thế lớn lên mỗi năm, thay thế dần thế hệ đàn anh thứ nhất và đồng thời môn triết học Tây phương được trải rộng tại các tỉnh phía Nam cũng như miền Trung. Chỗ nào có trường Trung Học đệ nhị cấp là có họ. Họ đi gieo trồng môn triết trên khắp miền Nam, đem những tư tưởng, trào lưu triết học đến thế hệ học sinh khắp nước. Công việc làm của họ có thể âm thầm. Nhưng hậu quả thật lớn, vì nhờ đó cả một thế hệ thanh nhiên được truyền thụ tinh thần tự do tư tưởng, được tiếp xúc với những nhà tư tưởng lớn của thế giới.

Họ là những người như chim đầu đàn, đáng lý phải xếp vào thế hệ hàng đầu như Nguyên Sa Trần Bích Lan. Thật ra, ông viết về triết không nhiều. Ngay tờ Hiện Đại do ông làm chủ bút chỉ có hai bài về A. Camus của Trịnh Viết Thành. Riêng ông sau này viết như một phủ nhận triết thuyết ấy với bài: Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, đăng trên tờ Đất nước. Ngay trong phạm vi dạy triết trung học, ông chú trọng vào việc luyện thi hơn là truyền bá một loại kiến thức triết sâu xa gì.

Tiếp theo là những Nguyễn Vĩnh Đễ, gs triết tại Collège de Trois-Rivières với: Le problème de l’homme chez Jean-Jacques Rousseau. Considérations actuelles, essais philosophiques với nhiều tác giả. Trần Đức An, tác giả sách giáo khoa, Trương Toàn, Lê Thanh Hoàng Dân, dịch triết học hiện sinh. Dịch Bức tường, Le Mur. Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn trrước 75 và chủ bút báo Văn.

Có dịch chung với Trần Phong Giao như đã nói ở trên. Đinh Văn Hải, Phạm Việt Cường, cao học triết Đại học Văn khoa, Sàigòn, chị Hoàng Mỹ Hiền, chị Chu Kim Long, rồi Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Đa, Bùi Ngọc Dung. Anh Bùi Ngọc Dung có viết một số bài như Camus và nền văn chương triết học. J.P Sartre, từ hiện sinh đến biện chứng. Trần Công Tiến với luận án Từ Hiện tượng luận Husserl đến hiện tượng luận Heigeigger, 1969. Anh cũng có viết bài từ Heideigger 1 đến Heideigger 2. Đặng Phùng Quân, cao học Triết là một trong những người viết nhiều nhất, năng nổ và dài hơi nhất. Hiện hữu tha nhân với G.Marcel. Triết học và Khoa học. Chân dung triết gia. Triết học và văn chương. Hành trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ. Phê phán hệ tư tưởng

Mác xít, tập truyện ngắn Miền Thượng Uyển,… Thụ Nhân, tác giả cuốn sách dịch L’existentialisme est un humaniste và cuốn L’existentialisme. Huỳnh Thanh Tâm, trước đây với nhiều bài viết về triết học như đã nói ở trên, nay chuyển sang dịch thuật. Trần Văn Nam, Trần Nhựt Tân phân tích các chủ đề văn chương trong đó có: Tập thơ độc nhất với luận án Quan niệm

của Sartre về hữu thể., Nguyễn Nhật Duật, viết phê bình văn học. Phạm Phú Minh, chủ bút tờ Thế kỷ 21. Nguyễn Đồng, Lê Mạnh Thát, học ở Đà Lạt, sau đi du học ở Mỹ và nay là phó viện trưởng thường trực Học Viện Phật giáo VN. Thày viết Lịch sử Phật giáo VN (ba tập) Triết học thế thân Vasubandhu. Trần Thái tông toàn tập, Trần Nhân Tông toàn tập. Nguyễn Tử Lộc, đã mất, anh có dịch: Thi sĩ da đen,. J.P. Sartre. Tô Văn Lai, Nguyễn Văn Vũ, Trương Đình Tấn, Nguyễn Văn Thuộc, Nguyễn Hữu Dư, Đặng Thần Miễn, với bài thơ tiếng hát da mầu, được Nguyễn Ngọc Lan và Lê Hảo dịch ra: Chant de louange pour la peau d’ébene trong tập: Le crépuscule de la violence, nay là nhà dịch thuật. Vũ Chí Hùng, Uông Đại Bằng, Lê Tấn Lộc, Võ Văn Bé, Phạm Minh Quý, Võ Túc, Nguyễn ĐăngTrúc với Sinh hoạt cảm xúc trong Hiện Tượng luận M. Scheler. Hiện nay, anh Nguyễn Đăng Trúc là giáo sư phân khoa thần học NH Strasbourg, Pháp, tác giá các sách: Văn Hiến, nền tảng của minh triết. Tiếp cận tư tưởng VN: vấn đề triết

học. Và anh đang sắp sửa cho in cuốn sách triết học trong đó trình bày thời kỳ tiền triết học gồm: Eschyle, Sophocle, Héraclite, Parménide, Socrate.. đồng thời làm chủ nhiệm tờ Định Hướng. Đỗ Phương Anh, Phạm Ngọc Đảnh, Nguyễn Ngọc Phách với Tương quan giữa tư tưởng và tượng trưng. (Hiện tượng luận thông diễn của Paul Ricoeur) Trương Toàn, Nguyễn Thanh Tùng, Hoàng Minh Khánh, Vĩnh Phiếu, Nguyễn Văn Thuộc, chị Phan Thanh Gia Lai, chị Đoàn Phi Loan, chị Thanh Tân, Nguyễn Duy Diệm, Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Mẫn, Nguyễn Nhật Duật, đã mất, viết phê bình văn học.  Bùi Văn Nam Sơn, có đi học thêm Triết ở Đức với công trình đồ sộ là dịch cuốn Phê phán Lý tính thuần túy của Emmanuel Kant, nxb Văn Học, dày 1261 trang. Hồ Công Danh, Võ Doãn Nhẫn, làm thơ. Nguyễn Văn Lục, viết phê bình Văn học. Bành Ngọc Quý, Dương Văn Ba, Nguyễn Quốc Tuấn, Phùng Quyên.

Ngoài Huế có thêm các chị Phương Chi, Diệu Trang, Thái Kim Lan, dịch giả Huệ Tím của Hermann Hesse và kịch Người hảo tâm thành Tứ Xuyên của B.Bretch. Tập Chức năng của cảm giác tính trong việc phê phán lý tính thuần túy. (luận án tiến sĩ) Tống Thị Lan, Nguyễn Châu, viết nghị luận. Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn với bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông. Thơ với Người hái hoa phù dung. Hoàng Văn Giầu, với Phồn Hoa kinh, hiện nay chủ bút mạng Chuyển Luân, bên Úc. Lê Tử Thành, Nguyễn Nguyên Phương, Trần Xuân Kiêm, dịch thuật triết học cùng với Trần Công Tiến, Phạm Công Thiện, Trương Đăng Dung cuốn Martin Heideigger.

Không có những người thợ gieo gặt này, ở khắp nơi trên mảnh đất miền Nam, từng ngày, từng năm, âm thầm truyền đạt, cấy niềm tin, cấy những luồng tư tưởng mới, mỗi người mỗi cách truyền đạt, mỗi người mỗi thái độ chọn lựa, gieo vào đầu óc thế hệ thanh thiếu niên miền Nam những giá trị tinh thần với sự xác tín. Nói rộng ra, từ các cô giáo viên tiểu học đến Trung Học,

trong đó có các giáo sư Triết, giáo sư Việt Văn.. ít nhiều đều có sự xác tín như thế.  Dạy học mà không có xác tín, không cấy được niềm tin thì không có giáo dục. Nhưng cũng xin nhấn mạnh ở đây, xác tín ở đây là sự ưng thuận tự nguyện, không do nhồi sọ, tuyên truyền, áp đặt.

Trong số những giáo sư này, điều chính mà tôi muốn nhấn mạnh là sự đóng góp của họ trong thời gian 20 năm triết học Tây Phương ở miền Nam. Phần còn lại sau này có viết được gì không nằm trong khuôn khổ của bài viết này nữa. Chỉ xin lược kê mà không có ý kiến.

Phần cá nhân tôi, dù rằng chẳng học được bao nhiêu ở các thày. Nhưng cái tính thần học hỏi, cơ hội học hỏi trau dồi hiểu biết thì không thiếu. Điều đó buộc tôi nghĩ rằng, tôi đã may mắn được sống ở miền Nam, được lớn lên, được nuôi dưỡng, được giáo dục trong cái môi trường đó, được trở thành giáo sư Triết ở đó. Tôi không có gì để hãnh diện hơn nữa. Càng nghĩ đến xã hội hôm nay, niềm chua xót càng lớn… Thật tiếc cho giới trẻ hôm nay ở miền Việt Nam, chúng đã không có cái may mắn như chúng tôi, mặc dầu có thể chúng tôi đã mất hết.

Có thể tôi đã quên nhiều người… Xin tạ lỗi. Điều đó không tránh được. Nhưng xin nói với các bạn đồng hành, tinh thần học hỏi của triết học Tây Phương, đó là tính ưu việt của miền Nam mà mỗi người phải tự hãnh diện và giữ lấy về những năm tháng ấy.

  1. Tinh thần học Triết và dạy triết Tây phương ở miền Nam.

Trước vài giờ lên máy bay về lại Canada, tôi nghĩ cần phải nói những điều tôi đang suy nghĩ với một người bạn. Tôi kêu xe Honda ôm lên nhà Nguyễn Trọng Văn để chỉ muốn bày tỏ với anh ta một điều: cái gì là đặc điểm của triết học Tây phương ở miền Nam. Tôi đã nói cái ý đó ra, chúng tôi cùng phá lên cười, cười nghiêng ngả vì trúng ý nhau, rồi cảm động đến ứa nước mắt. Những dòng sau đây viết để tặng tất cả những người bạn thời tuổi trẻ.

A. Tinh thần tự do suy nghĩ, phát biểu, giảng dạy

Ở miền Nam trước đây, người ta cứ nói tới độc tài Ngô Đình Diệm, độc tài trong tôn giáo, độc tài Nguyễn Văn Thiệu. Nhất định là có đấy không phải không.. Nhưng xin nhắc mọi người rằng, độc tài chính trị không có chỗ trong các giảng đường đại học. Quyền tự trị Đại học là tuyệt đối trong phạm vi tư tưởng. Nó có thể bị o ép trong phạm vi hành chánh, quản trị nhân viên trong việc bổ nhiệm và điều đó có thể đã xảy ra. Về tư tưởng, chưa bao giờ mà chủ nghĩa nhân vị có thể lọt vào các giảng đường. Nó có thể len lỏi vào Suối lồ. Nhưng giảng đường thì không. Ở nơi đây, các trào lưu triết học cổ, trung cổ, cận đại, hiện đại đều có chỗ. Triết học Phật giáo, Ấn độ giáo, Trung Hoa, triết học hiện sinh hữu thần và vô thần và triết học Mác Xít cũng được giảng

dạy trong cours Triết sử. Tự do đến thế. Điều ngạc nhiên đến không ai ngờ tới là khoa thần học công giáo lại không có mặt. Nhưng những vụ án như Galilée thì lại có. Điều đó muốn nói lên điều gì. Những giáo sư dạy triết sử như Raguin dạy Ấn Độ giáo, Phật giáo đến độ say mê tưởng lầm đâu rằng ông là một tỳ kheo, hay khất sĩ. Larre cũng thế. Tchen1, Tchen 2 cũng không khác.

Và tôi đã hỏi các bạn tôi, dù một lần thôi, họ có nói đến tôn giáo của họ cách này này cách khác.

Không. Nguyễn Trọng Văn, Lý Chánh Trung, Trần văn Toàn bê khệ nệ ông Mác vào giảng đường, nào có ai nói gì không. Bê Sartre, bê Heideigger hoặc vác G. Marcel vào thao diễn nói hay làm luận án là tha hồ. Tư tưởng nghịch chiều nhau, tư tưởng tả khuynh, hữu phái, cấp tiến hay bảo thủ đều có thể có mặt.

Trong những lúc tình thế sôi bỏng bên ngoài với sự xáo trộn chính trị, tôn giáo đủ loại, chúng ta thử nhìn xem những phản ứng thái độ của các viện trưởng, khoa trưởng như thế nào. Trong khuôn viên trường Đại Học Văn khoa, Sàigòn, trải qua nhiều thời kỳ biến động chính trị. Nó vẫn giữ được phong cách của mình. Phong cách đại học, vị thế nhìn, vị thế đối đấu và thường chọn

lựa vị thế đó. Vẫn tự lập, tự chủ. Vẫn có bản sắc, có tiếng nói riêng, chọn lựa cho mình. Tiếng nói đó là tiếng nói của tuổi trẻ, của lý tưởng và không muốn khuất phục, cúi đầu. Tiếng nói trung thực, không xu nịnh, bè phái, không nghiêng ngửa. Về chính trị thường là tiếng nói khuynh tả, đi ngược lại chính quyền đương đại. Đó là niềm tự hào của giới trẻ. Khánh Ly, Trịnh Công Sơn, các

phong trào phản chiến cũng từ nơi đó cất cao lên tiếng hát của mình.

Và đó là sự khác biệt sâu xa, khác biệt nền tảng tận cùng bản chất giữa miền Nam, miền Bắc trong thời kỳ đó. Bên đây giới trẻ ngửng đầu, bên kia cúi, bên đây nói không, bên kia nói dạ. Bên đây mỗi người mổi khác, bên kia tất cả là một. Bên đây đa dạng, bên kia đồng phục.

B. Tinh thần học triết học: ý thức ưu tư và thức tỉnh.

Bài học vỡ lòng cho các môn sinh bước vào ngưỡng cửa triết học là biết ưu tư, biết xao xuyến, biết thức tỉnh hay biết vươn lên (theo nghĩa của Kierkegaard). Tinh thần đó giúp con người vượt cái hiện hữu tự thân (en soi), ù lì, nhàm chán tiến tới hữu thể tự quy (être pour soi). Từ đó phải kiếm tìm. Phải thao thức, đặt lại vấn đề đưa đến thái độ hoài nghi, phủ nhận mọi hệ thống, chủ

nghĩa giáo điều, chống lại cái nghiêm chỉnh (esprit du sérieux) cái đã hình thành có sẵn. Chống nên lúc nào cũng như thể bắt buộc đi lại từ đầu trong một cuộc tìm khiếm không ngừng, như thể đang đi trên đường (en route). Cũng từ đó nảy sinh khái niệm con người hoàn cảnh, nhập cuộc, dấn thân, trách nhiệm, tự do chọn lựa…

Học triết trong cái tinh thần đó nên dễ có thái độ đặt lại vấn đề, ráo riết triệt để dễ đi đến cực đoan, phủ nhận, hư vô hóa.

Nhưng một mặt khác tinh thần triết lúc đó như một lời thúc dục say mê, mới mẻ, khám phá. Cứ cả đời như thế miệt mài, câu hỏi sẽ quan trọng hơn câu trả lời, đi tìm quan trọng hơn là tìm thấy.

Hình ảnh người học triết như kẻ suốt đời lang thang, chẳng bao giờ ngưng nghỉ, chẳng bao giờ bằng lòng với chính mình, phủ nhận cái tôi đang là tiến tới cái tôi sẽ là.

Tinh thần đó đã giúp nhiều sinh viên, giáo sư đứng trước mỗi tình huống, trước mỗi ngã rẽ, biết chọn lựa, biết dấn thân, biết trách nhiệm trong mỗi hoàn cảnh để cho cuộc đời một ý nghĩa.

Coi như thế, triết học không hẳn chỉ là một kiến thức nữa mà là kẻ hướng dẫn soi đường cho mỗi người thanh niên, nhất là trí thức khi vào đời. Bài viết này, dù đã dài, nhưng vẫn chưa đủ, vì vẫn chưa trình bày đầy đủ được mọi khía cạnh, mọi đóng góp của nhiều trí thức trong 20 năm (1955-1975) vừa qua.

C. Ý thức trách nhiệm và thái độ dấn thân nhập cuộc bằng hành động.

Triết học với ý hướng trách nhiệm đã mở đường cho những thái độ dấn thân, những chọn lựa  nhiều thứ mà quan trọng nhất là con đường thứ ba. Quan điểm của giới trí thức thiên tả giúp soi sáng một lối ra cho Việt Nam. Ngoài giải pháp quân sự, còn có một con đường thứ ba để có thể thoát khỏi guồng máy chiến tranh đã nghiền nát bao nhiêu thế hệ thanh niên vào cái chết vô ích.

Người ta không thể đánh nhau mãi. Phải tìm một giải pháp mới. Phần đông giới trí thức Việt Nam ở Âu châu, do chịu ảnh hưởng của thành phần thứ ba này, chủ trương một lập trường trung lập (Position neutraliste), không Cộng sản (non communiste).

Vào năm 1968, Liên đoàn Sinh viên và Thợ thuyền ở Paris tuyên bố:

Le peuple Vietnamien ne veut pas la paix que les communistes voudraient lui imposer. Il veut la paix dans la dignité humaine. Il veut, en même temps, une profonde révolution sociale pour assurer l’avenir de la République Vietnamienne.”

(Tạm dịch: “Người dân Việt không muốn có một nền hòa bình do người Cộng sản muốn áp đặt.

Họ muốn có một nền hòa bình trong sự tôn trọng phẩm giá con người. Đồng thời, họ muốn có một cuộc cách mạng xã hội sâu rộng để bảo đảm tương lai nền Cộng hòa của Việt Nam.”)

Tình hình chiến sự thời đó đã đến hồi quyết liệt. Lòng người dao động. Viễn ảnh một cuộc thua trận gần kề.. Có người trông vào hòa giải như một thứ giấy triển hạn, kéo dài một niềm hy vọng đã không còn hy vọng nữa.

Các trí thức thành phần thứ ba đưa ra một giải pháp Cách mạng Xã hội không Cộng sản trong tình huống lúc bấy giờ là một điều khó thực hiện được. Cộng sản một bên, Mỹ một bên với một chính quyền dựa hoàn toàn vào Mỹ. Liệu họ có thể dựa vào điều kiện khách quan nào, dựa vào nhà lãnh đạo nào để có thể có điều kiện thực hiện một cuộc Cách mạng cho người nghèo? Một

cuộc cách mạng không Cộng sản? Lý Chánh Trung đã trả lời về vấn đề này cho nhà báo Pháp khi được hỏi về sách lược của các nhóm thành phần thứ ba. Ông nói: “La troisième force, C’était une grande aspiration plutôt qu’une force réelle. Seules quelques

centaines de personnes étaient organisés. Ces groupuscules étaient ouverts à tous les vents, à toutes les influences. Ils n’avaient aucune idéologie précise”.

(Tạm dịch: “Lực lượng (hay thành phần) thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế, họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”)

“Et cette dernière raison explique pourquoi certains Vietnamiens pensent que Thiệu ne constituent pas la dernière carte Américaine dans le Sud. Cette dernière carte, c’est la Troisième Force et les Américains seront sans doute amenés à la jouer, sans doute mal ou trop tard

(Tạm dịch: "Và nguyên nhân cuối cùng giải thích tại sao một số người Việt Nam cho rằng Thiệu không phải là lá bài cuối cùng của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Lá bài cuối cùng, chính là lực lượng thứ ba mà chắc người Mỹ muốn sử dụng, chắc chắn đã quá muộn hoặc sẽ có kết quả không hay.”)

Nhìn theo viễn tượng đường dài, ảnh hưởng của thứ triết học với ý thức trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc và ngay trong tình huống của sự thất vọng thua cuộc đi nữa, giới trí thức miền Nam vẫn trở thành nhân chứng của một giai đoạn và trở thành kẻ tố cáo, kẻ tiên tri cho giai đoạn sau 30 tháng 4. Bởi vì, cho đến bây giờ, những khát vọng tự do và dân chủ, những khát vọng xóa bỏ bất cứ thứ độc tài cá nhân, đảng trị, hay toàn trị, những khát vọng về công bình xã hội, những khát vọng về một cuộc cách mạng xã hội cho người nghèo, vì người nghèo, thiết nghĩ, vẫn còn là một khát vọng của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, trí thức miền Nam, thông qua các trào lưu tư tưởng triết lý Tây Phương với những cao trào chính trị, những cuộc đấu tranh đòi tự do, bình đẳng, tìm về dân tộc…, thay vì là một thất bại, sau 30 tháng 4, bỗng nhiên trở thành một thực chứng, một đòi hỏi cần thiết.

Sau hơn 30 năm nhìn lại, chúng tôi nhận thấy rằng các trào lưu tư tưởng triết lý Tây Phương, nhất là triết lý Hiện sinh thông qua J.P Sartre đã có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống sinh hoạt trí thức miền Nam. Ảnh hưởng không chối cãi được cũng là niềm hãnh diện không chối cãi được khi so với nền giáo dục độc đoán và toàn trị của miền Bắc. Dù thế nào đi nữa, nền giáo dục miền Nam bảo đảm cho tinh thần tự do, dân chủ, tôn trọng ý kiến người khác và có tính cách nhân bản.

Sau hơn 30 năm nhìn lại, so sánh giữa hai miền.. Điều đó là một khẳng định khó mà nói khác được.

————————–

Chú thích:

  1. LM Alexis Cras (1909-1962), tu sĩ dòng Đaminh, qua VN từ 1932, đã sáng lập CLB Phục

Hưng (cercle renaissance) tại Hànội 1941 và Sàigòn 1955, giúp giới SV Đại học. Giáo sư trường

Louis Pasteur từ 1938-1944. Cha giữ chức vụ Bề trên phụ tỉnh Đaminh chi Lyon từ 1954-1961,

đồng thời là giảng viên tại Đại học Văn Khoa Sàigòn (1956-1962) và Đàlạt (1958-1962). Tháng

5-1962, ngài trở về bên Pháp nghỉ ngơi thì bị bệnh đau tim và mât ngày 07-7-1962, tại Lyon,

Pháp, thọ 53 tuổi.

  1. Xin xem thêm luận án Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d!indépendance 1945-

1954 entre la reconquête coloniale et la résistance communiste. Tran thi Liên. 1996

  1. Những tài liệu liên quan đến cha Đỗ Minh Vọng là do lm Đỗ xuân Quế, Phục Hưng, cho phép

tôi được sao chụp lại. Đây là vết tích cuối cùng còn để lại của cha Vọng, những trước tác, tài

liệu khác, chắc đã bị phát tán, thất lạc ngay từ sau 1975.

  1. Giáo sư Cung Giũ Nguyên vốn chỉ là một trợ giáo tập sự tại trường Nam tiểu học Nha trang.

Bài thơ đầu tiên là bài Le Mot, đăng trong tập san France-Adie, 1948. Tiếp theo là Một người vô

dụng, 1930. Nhân tình thế thái, 1931. Nợ văn chương, 1934. Volontés d!existence, 1954. Le fils

de la baleine, 1956. Le daumaine maudit, 1961 và Thái Huyên, 1995.

  1. Xem danh từ Triết học Cao Văn Luận, Đào văn Tập, Nguyễn Văn Trung, Linh Mục Xuân, Trần

Văn Tuyên, trang 17.

  1. Trích Triết học Hiện sinh, Trần Thái Đỉnh, nxb Văn Học, trang 7.

– Văn chương hiện sinh. Thế kỷ 20, số 3 tháng 9, 1960.

– Văn chương và Siêu hình học Thông cảm, 9-57

– Tiểu thuyết mới trong văn chương Pháp, TK 20, số 6, tháng 12

– Nhận Định 1 với những bài như cái nhìn, hối hận, thông cảm, e lệ, tự tử.Tất cả những bài viết

trên đã dùng phương pháp Hiện Tượng Luận để mô tả.

– Sau hết, có lẽ cũng nên kể đến những đóng góp trong việc giới thiệu những vấn đề cơ cấu,

huyền thoại, tha nhân, hiện tượng luận, dục tính, thân xác vong thân, ngụy tín, những vấn đề mà

bất cứ một sinh viên văn khoa nào cũng ít nhiều biết đến

  1. Tất cả những nhan đề bài viết của Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung hay của Trần Thiện

Đạo, Trần Phong Giao thì đều trích dẫn từ cuốn sách, in photocopie tựa đề: Nhìn lại những

chặng đường đã qua. Người cầm bút, kẻ làm chứng, Montreal 2000, của Nguyễn Văn trung.

Trong đó, đặc biệt chương 3 với Văn chương hiện sinh, từ trang 323 đến trang 392. 20 Năm Triết Học Tây Phương Ở Miền Nam Việt Nam 1955 – 1975

11 BÌNH LUẬN

  1. Ui, triết tréo con mịa gì . Cứ cho nhau mút cacx là thứ lý luận chặt chẽ nhứt gòi . Triết với chả tréo, hổng bằng lý luận mút cacx đâu .

  2. Anh mắt xếch và anh râu xồm là ông cố-tổ nội và ông cố-tổ ngoại của bọn triết-gia VN.

  3. Tưởng nhớ Thầy Nguyễn Trọng Văn,thày dạy lớp 12 “khai tâm” về triết học cho chúng tôi học sinh lớp 12 CVA (1970),làm hành trang quý giá cho tôi tiếp xúc với nhiều tác phẩm của nhiều triết gia những năm sau đó…Với quan điểm thiên tả,thầy tỏ ra rất “chịu chơi”,phóng khoáng,đôi khi tục tĩu rất có duyên,làm chúng tôi…mê gần chết !

  4. Triết học Mác Lê Nin

    Chỉ cần viện triết học ML cúa VC đưa ra khẩu hiệu hòa giải hòa hợp dân tộc thì mấy anh triết Tây Mít đặc chỉ có ngọng. Xỉu xỉu thêm tổ quốc XHCN nữa thì chỉ có ú ớ. Sơ sơ thêm phản biện xã hội nữa thì coi như đớ lưỡi.
    Chưa kể giáo sư tiến sĩ triết Trọng lú vừa đề xuất mệnh vận cộng đồng thể thì thôi rồi triết Tây Mít đặc tá hỏa tam tinh … câm luôn. Ha ha ha !

  5. Muốn triết Tây có triết Tây trình độ khứ khiệt nè

    Nguyễn Hữu Liêm triết gia hiện đại trình độ tầm cỡ đứng ngang hàng Đỗ Mười VC. Cỡ mấy anh triết Tây madze Mít đặc đi chổ khác chơi nha ! Ha ha ha !

  6. “Lực lượng (hay thành phần) thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế, họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”

    Cũng Lý Chánh Trung mong muốn chủ nghĩa Mác thắng ở VN. And xít happened

  7. Cộng sản một bên, Mỹ một bên với một chính quyền dựa hoàn toàn vào Mỹ. (NVL)

    Thầy triết Tây mà viết dzậy thì íu quá. Tinh thần phân tích cởi mở tìm ra sự thật ở đâu? Đang lúc lên đài so găng với địch thủ mà không dựa vào bản lĩnh của môn phái mình được đào tạo thì còn dựa vào cái gì?

    TT Ukraine hiện nay đi từng nước, nhất là Mỹ, năn nĩ sự trợ giúp quân sự để đánh lại Nga thì có ai đặt vấn đề lệ thuộc hay không? Liệu trong lúc dầu sôi lửa bỏng bạo lực đang chiếm nước mình như vậy thì có cần dựa vào Mỹ vào NATO hay không?

    Dạ, có chớ. Hơn ai hết người Ukraine dư biết là nếu không có Mỹ không có NATO thì đồng nghĩa với việc mất nước và bị Nga đồng hóa trong một thời gian không lâu !

    • Không chỉ Ukraine, mà toàn thể Châu Âu đều bị Ngaputin đe doạ, trừ phi EU đoàn kết về quân sự, quyết định lập lực lượng riêng theo mô hình với điều 5 của NATO, và cho NATO sụp tiệm.
      Hiểm hoạ Trump sẽ bỏ NATO đã làm nẩy sinh ý tưởng nầy để không còn lệ thuộc vào Mỹ.

    • “TT Ukraine hiện nay đi từng nước, nhất là Mỹ, năn nĩ sự trợ giúp quân sự để đánh lại Nga thì có ai đặt vấn đề lệ thuộc hay không?”

      Vì U Cà hổng có những “trí thức” như của mềnh . Chứ nếu có những “trí thức” đúng nghĩa như Tưởng Năng Tiến gọi đại tá công an chìm là hoạt động hải ngoại là nhà báo tận tụy, hay Tiến Sĩ Mạc Văn Trang & nhà văn Nguyên Ngọc … chắc chắn họ sẽ đặt vấn đề

      “Hơn ai hết người Ukraine dư biết là nếu không có Mỹ không có NATO thì đồng nghĩa với việc mất nước và bị Nga đồng hóa trong một thời gian không lâu”

      Rất đúng . Cứ nhìn dân hải ngoại mến mộ & biện hộ cho cả Hồ Cương Quyết thì biết . Xít chó để lâu ngày sẽ thơm lừng . Ai nhăn mũi thì sẽ bị kiu là tưởng thối . Chớ thật sự thì thơm tho lém lém lun . Nhãn hiệu cầu chứng mộc thuốc nổ TNT -Tưởng Năng Tiến, Trương Nhân Tuấn- đấy

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên