Vòng đai xanh: Một cái chết được báo trước

1

 

“Vòng Ðai Xanh” (VĐX) của Ngô Thế Vinh ðược xem là một tiểu thuyết chiến tranh, ðược viết rất thực bởi một quân y sĩ xông pha ngoài trận tuyến. Cuộc chiến tự vệ của người dân Miền Nam chống xâm lược của Cộng Sản Miền Bắc kéo dài ðến 15 nãm (1960-75), nếu không nói ðến hoạt ðộng khủng bố, phá hoại 2-3 nãm trước khi chiến tranh chính thức khai mào, cho nên chúng ta không thiếu những tác giả viết về cuộc chiến ðó, cảm khái từ những mất mát, ðổ vỡ, tan hoang của con người, của tuổi trẻ, của gia ðình, của xã hội, của ðất nước vì chiến tranh. Không thiếu, nhưng chắc không thừa, không ðủ khi nhìn ðến “quy mô” của cuộc chiến, chiều dài của nó về thời gian và không gian, cùng với những biến chuyển phức tạp qua các thời kỳ.

Mặt khác, phần lớn những tác giả của thời ðó, thường là quân nhân (và một số người không phải là “fan” của cuộc chiến ðó), chỉ có phương tiện, thời gian và cảm hứng ðể viết những tác phẩm ngắn. Và bình thường, những truyện ngắn thường chỉ phơi bày những bi kịch thời chiến mà không có bất kỳ phê phán “tội ác chiến tranh” nào. Tưởng như những người phản chiến mượn ngòi bút ðể thể hiện ý chí của mình. Chúng ta không có một ðại tác phẩm như “Chiến tranh và Hòa bình” của Leo Tolstoy. Hay “All Quiet on the Western Front” của Erich Maria Remarque, hay “A Farewell to Arms” của Ernest Hemingway. Hay “The Naked and the Dead” của Norman Mailer…

VÐX, một phần nào ðó là một tiểu thuyết chiến tranh, ra mắt vào nãm 1970. Tác phẩm này ðược trao Giải thưởng Vãn học Toàn quốc nãm 1971 – giữa khi tác giả ðang lặn lội trong một ðơn vị Biệt kích Dù vào sinh ra tử trong vùng cao nguyên rừng núi biên giới thuộc Vùng 2 Chiến thuật. Ngô Thế Vinh không thể từ bỏ ðơn vị ðể về Saigon nhận giải và hiểu rõ hơn vì sao mình ðược vinh dự ðó. Khó kiếm ra tài liệu cho biết rõ hơn giải thưởng này ðã ðược tổ chức thế nào, giám khảo là những ai, và ai ðã từng ðược giải thưởng ðó… Trong trí nhớ rất khả nghi của một người cao niên tuổi già sức yếu, tôi nghĩ ðến những bậc trưởng thượng trong làng vãn học Miền Nam như Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn… Trong những người ðã nhận giải, tôi còn nhớ ðược nhà vãn Trang Châu, cũng là một y sĩ tiền tuyến. Giải thưởng của Ngô Thế Vinh là vào nãm 1971, cho nên có thể kết luận ðây là Giải thưởng Vãn học Tổng thống Nguyễn Vãn Thiệu ðã lập ra từ nãm 1969 (?), thay cho những giải ðã có trước ðó.

Tôi ðã cố tìm ðọc trong ấn bản mới nhất của VÐX ðể hiểu ðược lý do vì sao ban giám khảo ðã chọn tác phẩm này ðể trao giải vãn chương. Chẳng lẽ cứ “ðộc ðoán” trao giải mà không cần một lời bình phẩm, khen ngợi? Cũng có thể sự lựa chọn VÐX là một quyết ðịnh cực kỳ tế nhị, các giám khảo ðã ðồng ý về sự lựa chọn, nhưng cũng ðồng ý giữ im lặng, không giải thích quyết ðịnh của mình, ðể tránh ðụng chạm hay phiền phức về sau? Một lời không nói có khi còn hơn vạn lời nói ra? Giải thưởng mang tên tổng thống, bởi thế sự lựa chọn người ðược giải cũng có thể ðược diễn dịch có sự ðồng ý của ông. Nhưng cũng khó tưởng ðược Tổng thống Thiệu có thì giờ ðọc, hay có thể thích một tác phẩm có nội dung như VÐX.

VÐX sẽ là một tác phẩm muôn ðời gây tranh cãi bởi vì VÐX là một tác phẩm chính trị, một tiểu thuyết chính trị! Chính trị luôn luôn là vấn ðề gây tranh cãi muôn ðời. Huống chi vào thời ðó, VÐX nêu lên một vấn ðề chính trị ðương ðại có tính cách quyết ðịnh sự sống còn của ðất nước Miền Nam cho dù không hẳn chúng ta trước ðây ðã nhìn thấy ở mức ðộ quyết liệt ðó. Bối cảnh hay trọng ðiểm chính là một vùng ðất rất chiến lược theo ðúng nghĩa, rất trọng yếu cho an ninh, an toàn của Miền Nam, một tiền ðồn then chốt cho chế ðộ Miền Nam, thế nhưng người Mỹ ðã xem nhẹ tiền ðồn Miền Nam của Thế giới Tự do như thế nào thì chúng ta cũng “thiếu cảnh giác” ðối với tiền ðồn của ðất nước của mình như thế ðó. Người Mỹ mất tiền ðồn này (Miền Nam), họ chỉ nhún vai và quay qua hướng khác. Còn chúng ta? Mất tiền ðồn này (tức cao nguyên trung phần của ðất nước) thì chỉ có một con ðường vong quốc trước mặt!

Có thể hình dung một giám khảo của giải thưởng này ðã ðưa ra một phát biểu ngắn gọn sau ðây: “VÐX không phải là một tác phẩm vãn học, vãn chương. Nhưng ðó là một tiểu thuyết chính trị hiếm có, ðặc biệt hiếm có. Ðặc biệt tế nhị vì nhìn thẳng vào thực tại ðáng quan ngại của Miền Nam hiện nay. Tiểu thuyết chính trị ðã rất hiếm có thời nay vì thường phải ðụng chạm với các thế lực lớn trong xã hội. Có khi không tránh ðược ðụng chạm ðến tôn giáo. Ðến các ðịa phương. Tiểu thuyết chính trị VÐX chuyên chở một nội dung không có hư cấu tí nào mà nhìn thẳng vào một thực tại chính trị có tính sống còn của ðất nước một cách xác thực nhằm ðưa ra một cảnh báo nghiêm trọng cho lãnh ðạo, cho quốc gia như thế thì thật ðặc biệt hiếm có. Một nội dung rất thẳng thắn, sâu sắc, trung thực một cách táo bạo nói lên tất cả sự dũng cảm của tác giả, nhưng không chỉ là sự dũng cảm mà là một tấm lòng lo lắng tha thiết ðối với dân, với nước của một trí thức, một sĩ phu tưởng rằng chỉ có từ thời xa xưa”. Những giám khảo còn lại hẳn ðồng tình với ông, vì ðương nhiên họ ðã cũng ðọc hết tác phẩm này. Người ta không thể ngoảnh mặt với vận mệnh dân tộc khi cảm thấy bờ vực không xa!

Khi nói ðến chính trị là nói ðến các thế lực ðang tranh chấp và chia sẻ quyền lực, tiếng nói của người dân và vai trò phán quyết của công lý, pháp luật. Khi nói ðến chính trị của thời ðó là nói ðến những nãm sau khi nền Ðệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Ðình Diệm bị sụp ðổ (1963), một thời chiến tranh ðang bùng phát khắp mọi nơi trên lãnh thổ Miền Nam, sau biến cố Vịnh Hạ Long (tháng tám nãm 1964) và quyết ðịnh Mỹ chính thức ðưa quân chiến ðấu ðến Việt Nam (tháng ba nãm 1965) ðể giúp Miền Nam khỏi rơi xuống bờ vực và giành lại thế chủ ðộng chiến trường. Nhưng chính trị của thời ðó là sự tranh chấp quyền lực của các phe phái trong quân ðội (các tướng tá sổng chuồng, từ “cách mạng” 1-11 ðến “chỉnh lý” 30-1 và hàng loạt ðảo chánh thật, ðảo chánh giả, cho ðến khi một số tướng lãnh lộ mặt thật ra, chính thức cầm quyền tháng sáu nãm 1965), sự lạm dụng tín ðồ, ðặc biệt là học sinh-sinh viên, với hàng loạt xuống ðường trong bốn nãm 1964-67 khi người tu bỏ ðạo ðể bon chen với ðời, và tính ấu trĩ của ðảng phái khi người ta không hề nghĩ ðến chuyện làm sao ðến với dân và làm cho người dân ðến với nhau… Sự xung ðột giữa những thế lực lớn này ðể nắm quyền lãnh ðạo ðã bất kể người dân ðang ngày càng bất an, khốn ðốn về thời cuộc, chiến tranh ở thôn quê, khủng bố ở thành thị, và chính trị ở Saigon, ðiêu ðứng về công ãn việc làm và kinh tế lạm phát. Và bất kể một cuộc chiến có tính sống còn của ðất nước, của chế ðộ, và tư cách, uy tín, danh dự phải giữ ðối với một ðồng minh trụ cột trong cuộc chiến này mà chúng ta ðang lệ thuộc chẳng phải hầu như hoàn toàn mà là hoàn toàn mặc dù ðồng minh này ngày càng mất tín nhiệm nước chủ nhà và xem cuộc chiến chống cộng này là cuộc chiến của họ!

Người dân Saigon bị cuốn hút vào chính trị Saigon – các tướng tá, các thầy, các cha và ðồng ðô la xanh, ðô la ðỏ, ðặc biệt trong những nãm ðó. Họ cũng chẳng hiểu bao nhiêu chuyện “ðịa lý chính trị” phức tạp của Miền Nam, vùng nào thì người nào làm chủ (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hòa Hảo, Cao Ðài, Ðại Việt Cách Mạng, Việt Quốc…), cho nên ðương nhiên chẳng hiểu ðược chuyện chính trị ở vùng cao nguyên trung phần. Nãm 1964 chẳng hạn, chẳng mấy ai biết hay bận tâm với biến cố người Rhadé nổi dậy ở một trại lính ở Ban Mê Thuột giết chết bao nhiêu lính và cả thường dân người Việt. Người ta nghe loáng thoáng ðến phong trào FULRO, nhưng chẳng mấy ai biết ðây là tên gọi của Mặt trận Thống nhất Ðấu tranh cho các Sắc tộc Bị áp bức – Front Unifié de Lutte des Races Opprimées. Tại sao phong trào của người Thượng mà mang tên tây? Câu hỏi này ðáng cho những bậc thức giả chính trị phải tỉnh hẳn dậy!

Biến cố này xảy ra vào tháng chín nãm 1964, giữa khi chính trường Saigon ðang cực kỳ nhiễu nhương: các thượng tọa không lý gì ðến chuyện “từ bi hỉ xả”, ðành lòng ðể Dương Vãn Minh bác ðơn xin ân xá của Ngô Ðình Cẩn, ðể cho Nguyễn Khánh xử bắn ông (5-5); hai tôn giáo chính chẳng có một lời hòa giải với nhau; Tướng Khánh lợi dụng Hội ðồng Quân nhân Cách mạng ðưa ra Hiến chương Vũng Tàu (15-8), trao cho ông ta quyền tổng thống. Việc không thành vì sư sãi và linh mục xuống ðường, nên ngày 8-9 Khánh lập “tam ðầu chế” Minh-Khánh-Khiêm (Dương Vãn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm), tồn tại chưa ðược hai tuần. Sau ðó, hai tướng Dương Vãn Ðức và Lâm Tấn Phát lại tổ chức “biểu dương lực lượng”, mở cơ hội cho Nguyễn Vãn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ can thiệp và nhảy lên sân khấu chính trị. Ngày 25-9, nhóm “Young Turks” (sĩ quan trẻ) chính thức ra mặt, yêu cầu Khánh giải nhiệm Khiêm và 4-5 tướng khác… Khiêm và Minh ðều phải rời khỏi nước cho các tướng trẻ yên tâm! Sau ðó, ngày 26-9, người ta dựng lên Thượng Hội ðồng Quốc gia. Lãnh ðạo ở Saigon còn không lý gì ðến chuyện nổi loạn này và nỗi lo lâu dài nó ðặt ra, huống gì người dân. Làm sao họ có thể ðể ý vụ nổi loạn ở “xứ Thượng” – tưởng như chuyện xa vời, không liên quan gì ðến mình. Ðương nhiên, ít người hiểu ý nghĩa trầm trọng của vấn ðề.

Phải nói cho ngay tình, tuy khẩu hiệu quen thuộc là “Kinh Thượng ðoàn kết một nhà”, nhưng ai ở nhà nấy, không hề biết ðến nhau, không sống chung trong một nhà cho nên chẳng cần nói chuyện ðoàn kết. Quan hệ Kinh Thượng này còn xấu hơn quan hệ giữa người da trắng và da ðen ở Mỹ. Người da trắng gọi người da ðen là “nigger”, một số người Kinh gọi người Thượng là “mọi”. Người da trắng còn lập gia ðình với người da ðen. Người Kinh hầu như không lấy người Thượng – ra ðường còn không nhìn những phụ nữ Thượng ãn mặc thế nào! Người da trắng biết gốc gác người da ðen hơn người Kinh biết người Thượng. Chúng ta thường ðơn giản chỉ nghĩ ðến người Thượng như người sống tách biệt trong vùng rừng núi. “Nụ cười sơn cước” chỉ là chuyện hoang ðường, mua vui. Ít người hiểu rằng trong dân Thượng có cả dân Chàm, Chân Lạp, Chiêm Thành… mang nỗi hận mất nước – con cháu Chế Bồng Nga. Cho nên “tình dân tộc, nghĩa ðồng bào” chẳng có trong quan hệ giữa Kinh/Thượng. Nguy hiểm hơn nữa, người Thượng vẫn xem phần ðất mà họ ðang sống trên ðó là giang sơn của riêng họ, nhiều người vẫn muốn có một nước riêng (Ðông Sơn) và người Kinh hãy tránh xa, ðừng lui tới (Anh khách lạ, ði lên ði xuống). Chẳng ai nghĩ hay lo sợ vì mối quan hệ “a divided house cannot stand” này vì phần lớn chúng ta không thấy ðược hay thấy hết vị trí tiền ðồn chiến lược của vùng Trung Nguyên này trong cuộc chiến một mất một còn chống sự xâm lãng của Miền Bắc.

Nói dài dòng, lòng thòng như thế chỉ nhằm nêu bật một ðiều: sự tỉnh thức của tác giả VÐX và hoài bão thức tỉnh mọi người của NTV qua VÐX. NTV ðương nhiên cũng bị cuốn hút vào thời sự chính trị của Saigon tao loạn. Vào những nãm ðó, anh ðang là sinh viên y khoa và là chủ bút/tổng thư ký của báo Tình Thương, một tờ báo sinh viên nhưng vượt cả những rào cản thường tình của một tờ báo sinh viên ðể dấn thân vào cuộc sống của ðất nước, của xã hội. Ðó là chuyện hiếm có chỉ thấy ở báo chí hung hãng tranh ðấu nhảm nhí ngoài Huế. Nhưng Tình Thương không tranh ðấu và không nhảm nhí. Hai chữ dấn thân có ý nghĩa nhập cuộc. Bởi vì Tình Thương không thể ðứng ngoài hay ðứng trên khi cuộc sống của người dân ngày càng bất an, vận mệnh ðất nước mon men ðến bờ vực. Có thể biến cố nổi loạn của phong trào FULRO vào tháng chín nãm 1964 ðã là “giọt nước tràn ly” ðối với NTV. Như ðược thức tỉnh, anh bắt ðầu tìm hiểu như một nhà báo, và hẳn phải bàng hoàng trước thực tại chính trị ở vùng cao nguyên biên giới này. Khi tốt nghiệp, anh trở thành quân y sĩ cho một ðơn vị Biệt kích Dù hoạt ðộng trên vùng cao nguyên này. Anh có thêm ðiều kiện, kinh nghiệm thực tế trong tìm hiểu ðời sống chính trị và xã hội của người dân Thượng. Có thể ðó là bối cảnh của sự ra ðời của VÐX.

Lúc ban ðầu, NTV không có ý ðịnh viết tiểu thuyết mà ðặt trọng tâm vào thể tài phóng sự ðiều tra. Phóng sự ðiều tra dĩ nhiên phải thực. Nhưng thiên phóng sự ðiều tra này ðương nhiên ðụng chạm ðến nhiều vấn ðề chính trị nhạy cảm, ví dụ như Mỹ với sức mạnh quân sự (USOM) và viện trợ kinh tế (USAID), ðã “soán ðoạt” chủ quyền của chính phủ Saigon ít nhất ở vùng này (bài hát thịnh hành hồi ðó: “Cái nhà là nhà của ta, USAID, USOM làm ra”). Lính Mũ Nồi Xanh (Green berets) là một lũ kiêu binh, nghĩ rằng có thể làm giặc ðược, chỉ kém lính “lê-dương” (légion) thời thực dân Pháp. Binh ðoàn này có thể thành công trong ngãn chận lính Bắc Việt xâm nhập vào vùng trung nguyên, nhưng cũng gây hãi hùng cho người dân trong những cuộc hành quân có tính cách “lùng và diệt” của họ. Các tướng già theo tây, tướng trẻ (Young Turks) Mỹ giúp khôn lớn xem chừng thích quyền hành hơn quyền bính, ham chính trường mà né chiến trường, cho nên liên miên ðảo chánh. Các thầy dường như cũng chẳng biết gì chuyện ðất nước có giặc – nhất là sau khi Thích Trí Quang ðược lên bìa tạp chí Time ngày 22-4-1966 với ðề tựa “The Buddhist Bid for Power”. Dân Saigon sống lo sợ nghèo ðói và VC khủng bố… Và quan trọng hơn cả, những người lãnh ðạo ðất nước chẳng có ðường lối nào ðể ðánh giặc, phó thác tất cả cho cố vấn Mỹ. Ðiều ðó càng hiển nhiên hơn khi chúng ta nhìn vào chính trị ở vùng trung nguyên ðịa ðầu này. NTV muốn nêu lên tất cả những ðiểm này. Anh thừa can ðảm làm chuyện ðó, nhưng làm sao những người kiểm duyệt có ðủ can ðảm thông qua những chuyện này? Bởi thế mà anh phải tìm cách nặn lại thiên phóng sự ðiều tra VÐX thành một tiểu thuyết.

Theo lời NTV, một trong những lý do, hay “ðộng lực” chính, của ông khi dấn thân vào VÐX là “The Green Berets”. Tiểu thuyết này ra ðời nãm 1965, ðược xem là một thiên “anh hùng ca” của những người lính mũ nồi xanh ðã bình ðịnh ðược khu vực biên giới cao nguyên này và ðem an vui ðến cho người dân, ngược lại với sự “bất lực, hèn nhát và nhũng lạm” của quân chính phủ Saigon cùng sự ðộc ác, tàn bạo của kẻ thù VC. “Green Berets” là tác phẩm phổ biến nhất – ít nhất là ðối với hàng trãm ngàn lính Mỹ ðang tham gia cuộc chiến ở Miền Nam vào lúc ðó. Cái tai hại của cuốn sách là vô kể khi nó ảnh hưởng ðến ðộng thái của lính Mỹ ở VN. NTV xem cuốn sách này là một sự bịa ðặt trắng trợn mang nặng tính thực dân một thời cần phải vạch trần. Ông mong VÐX phản biện sẽ cho người ta thấy sự thật hơn – ít ra từ tác giả là người trong cuộc.

Câu chuyện VĐX đơn giản một cách phức tạp – hay phức tạp một cách đơn giản. Một nhà báo ở Saigon quyết định lên vùng Thượng Trung Nguyên để tìm hiểu về người Thượng sống ở vùng tuyến đầu này (Nhà báo này trong thực tế không ngoài ai khác là NTV!). Cùng mục đích là Davis, một nhà báo Mỹ làm cho một tờ báo lớn (New York Times, Washington Post, Newsweek hay Time?) muốn nắm tình hình ở một nơi thử thách nhất cho chính sách “Mỹ hóa chiến tranh” 1965 của Tổng thống Johnson. Hai nhà báo đã sớm khám phá tính phức tạp khôn lường của chính trị ở môt nơi “nhỏ như lỗ mũi”, hầu như biệt lập, tách rời với “thế giới chung quanh” (chế độ Miền Nam của người Việt với thủ đô là Saigon). Người Thượng sống an phận, biệt lập, không muốn dính líu gì đến người Việt quốc gia và VC, và hoan hỉ với người Mỹ, viện trợ Mỹ, quân Mỹ chiếm đóng… Thậm chí, một số người chủ tâm ly khai (FULRO) còn nghĩ rằng Mỹ sẽ giúp họ lập nên một nước Đông Sơn riêng biệt. Việt Cộng đương nhiên muốn khuấy phá không ngừng để ép người dân Thượng sợ chúng và đi theo chúng, tránh xa người Mỹ. Bởi thế mới có cuộc thảm sát đến cả 600 người dân thường ở một nơi lính Mỹ không “bảo hộ”.

Trong khi ðó, chính phủ Saigon cũng lúng túng, trở nên thụ ðộng trước sự lấn áp của người Mỹ. Sự thiếu lãnh ðạo, thiếu chính sách thể hiện ở hai ông tướng thường ðược nói ðến như tư lệnh vùng: một ông tướng Trị không có tham vọng vì bất lực trước người Mỹ và tham nhũng; một ông tướng Thuyết tham vọng “vương tướng” nhưng không có quyết tâm hành ðộng vì thiếu phương hướng. Theo lời tướng Trị: “… vai trò của vị tướng lãnh trên cao nguyên hiện tại là chánh trị chứ không phải quân sự mà tôi chỉ là một nhà quân sự thuần túy…”. Ông miệt thị người Thượng: “Sao tôi lại không biết cái chân lý bọn Thượng chỉ tuân lệnh và tri ân những ai ðem thức ãn vào miệng chúng nhưng bọn Mỹ cũng biết ðiều ðó, tụi nó muốn ðộc quyền tranh thủ nhân tâm bằng cách này”. “Tướng Thuyết ðã không thành công khi ðòi cứu trợ phải qua tay nhà cầm quyền VN”. Nhà báo cũng nhận ðịnh: “Chính phủ VN ðã lầm lẫn khi trao toàn quyền cứu trợ ðám người Thượng tỵ nạn vào tay người Mỹ”.

Ðúng thôi. Như thế thì người Thượng chỉ biết có người Mỹ, làm sao họ cần nhìn mặt người Việt ở ðây? Ðặc biệt, tác giả ðã ðể ít nhất 1/3 số trang ðể nói ðến chính trị Saigon nhiễu nhương thời ðó. Người ta chỉ biết tranh chấp quyền hành, chẳng hề biết ðến những bài toán lớn của ðất nước.

Mỹ muốn Saigon khoán trắng cuộc chiến cho Mỹ? Tốt thôi. Càng khỏe! Trong khi ðó, người dân Saigon sống trong bất an, lo sợ: các tướng ðảo chánh; học sinh, thanh niên và cả giáo dân nghe lời các thầy, các cha xuống ðường; VC tãng cường khủng bố ðể trả thù người Mỹ leo thang… Báo chí thì ngột ngạt vì chế ðộ kiểm duyệt…

VĐX đã nói khá rõ về thái độ “thực dân mới” của Mỹ: xem thường nước chủ nhà và tự tung tự tác, xuất phát từ thái độ đáng xem thường, tắc trách của Saigon. Người ta xem quân đội Saigon như không có cho nên Green Berets mới trở thành kiêu binh. Vụ thảm sát mấy trăm người Thượng là một “tai tiếng” ghê gớm: “Còn đối với những người lính Mũ Xanh thì việc thí sáu trăm sinh mạng là một chứng tỏ đắc thắng của họ. Hậu thuẫn vững chắc của bọn này là những đơn vị Dân sự Chiến đấu Thượng và một lũ thông ngôn”. Mấy năm trước đó, cũng có vụ lính Thượng giết chết mấy chục người lính Saigon trong cùng trại. Người Mỹ tin rằng với chính sách “Mỹ hóa chiến tranh”, vùng này sẽ an toàn tuyệt đối, ngăn chận lính Bắc Việt theo đường mòn Hồ Chí Minh mượn ngõ đi vào Miền Nam. Họ cũng nghĩ việc truyền giáo sẽ làm tăng ảnh hưởng của người Mỹ trong khu vực, cho dù ông mục sư này vẫn quen ăn trên ngồi trốc và “mọi người vì mình”. “Lối suy nghĩ thực tiễn của ông (mục sư) vẫn mang nguyên bản chất của người Mỹ… Hình ảnh một vị thừa sai mắt xanh râu đỏ hùng hồn đứng rao giảng đạo về sự hiện hữu của Chúa cùng với những hy vọng hạnh phúc ở đời sau trước đông đảo đám con chiên phủ phục nghèo đói như kéo tôi lùi lại thời gian của hàng mấy thế kỷ văn minh”.
Ðiều phải nói ở ðây là chẳng những người Mỹ không hề nhắc nhở cho người Thượng hiểu họ trước hết phải là người VN và phải chiến ðấu như người Việt chống kẻ thù ngoại xâm là Miền Bắc. Trái lại, dường như họ còn khuyến khích người Thượng mơ tưởng nhiều hơn chuyện “thoát Việt”, xây dựng một ðất nước riêng của người Thượng có Mỹ bảo hộ…

Câu chuyện VĐX “tạm” kết thúc có hậu một cách u buồn vì thực không có giải pháp. Phong trào phản chiến bùng phát ở Mỹ, và Tòa Bạch Ốc thời Nixon phải tính đến chuyện “giải Mỹ hóa”, hay “Việt hóa” chiến tranh. Cho nên cái trại Daksut tiền đồn này được vất trả cho Việt Nam (tử tế dữ!). Tác giả đã trải qua những ngày tháng cực kỳ khó khăn vì chế độ kiểm duyệt ở Saigon khiến cho ông muốn bỏ nghề. Rồi sáu tháng nằm bệnh viện trên cao nguyên vì “tai nạn nghề nghiệp” (VC tấn công). Người bạn Davis bị tử thương bởi một vết đạn ở đầu và chết “ngay trên đường di tản”. Tác giả còn đơn độc thêm vì sự biến mất lẳng lặng của cô Nguyện, người bạn đời trong mộng, được xem là con chim sơn ca trong đời nhưng nay đã bỗng “cất cánh bay cao và chối từ quá khứ”. Trong sự chuyển giao VN hóa chiến tranh này, người Thượng thì hoang mang, chẳng biết phải dựa vào ai đây; người Mỹ không vui vì bỏ cuộc chơi; người Việt thì lúng túng. “Và điều quan trọng hơn nữa là cả người Thượng và người Kinh sau mấy lần đổ máu đều hiểu thấm thía rằng bởi trong cái mối tương quan môi hở răng lạnh, họ chỉ còn một cách là xích lại gần nhau để hợp tác xây dựng một cộng đồng quốc gia VN mới.

Kết luận ðó là khoảnh khắc lạc quan hầu như duy nhất trong VÐX, có lý do “chính trị” của tác giả. “Cái viễn ảnh tốt ðẹp của vùng Ðất Hứa Cao Nguyên còn phải trải qua nhiều máu, mồ hôi và nưóc mắt”, tác giả cảnh báo. Nhưng, ðau buồn thay, ðể “trải qua nhiều máu, mồ hôi và nước mắt”, chúng ta cần nhiều thì giờ, rất nhiều thì giờ, mà chúng ta trước ðã hoang phí, và ðến lúc ðó vẫn chưa ðủ ý thức về nhu cầu sống còn chúng ta phải chạy ðua “mệt nghỉ” với thời gian.

Theo “Biên Niên Sử Cuộc Chiến Vô Ðạo”, “Vào ðầu tháng ba, lính BV ðã bao vây Ban Mê Thuột ở Cao nguyên Trung phần. Sự tập trung ðông ðảo lính chính quy MB, cùng với những tin tức từ tù binh, liên lạc truyền tin của ðịch bị bắt ðược, cùng với những tài liệu tịch thu, cho thấy BV ðang chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô vào vùng này. Các ðơn vị CS cắt các trục giao thông chính ở vùng II. Ngày 10-3, quân BV mở tổng tấn công vào Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ chính của Trung Nguyên, ðến giữa ngày ðã tràn ngập khắp tỉnh lỵ. Sư ðoàn 23 bị tan rã, và BMT, thành phố chính của tỉnh Darlac, bị chiếm hoàn toàn ngày 13-3. Nhiều lính của Sư ðoàn 23 Bộ binh rã ngũ ðể lo ðưa gia ðình ði chạy giặc. Theo một nhận ðịnh, phản ứng lo sợ chuyện nhà ðến mức bỏ ngũ này của nhiều binh sĩ của Saigon là một “hiện tượng” ðóng góp “nặng nề” cho sự sụp ðổ của quân Miền Nam trong mấy tháng sau ðó”.

Đúng là “cái chết được báo trước!”

Giả sử những người giám khảo của Giải Vãn Chương Toàn Quốc 1970 gởi riêng cho Tổng thống Thiệu một memo nói lên những quan tâm của họ về những cảnh báo họ cảm nhận từ VÐX về an ninh quốc gia?

Hay giả sử thay vì ðưa tác giả VÐX ra tòa về tội nói xấu quân ðội VNCH làm hoang mang chiến sĩ, những người có trách nhiệm cùng ngồi lại ðể xem nếu VÐX ðã bị tháo gỡ vì Mỹ rút, an ninh của tiền ðồn này sẽ thế nào và ảnh hưởng ðến an toàn của ðất nước ra sao?

Chúng ta có đầy những sai lầm, thiếu sót, khiếm khuyết trong chính sách Trung Nguyên.

Thế nên!

HOÀNG NGỌC NGUYÊN

Utah, Giữa Mùa Ðại Dịch
26.02.2021

Hoàng Ngọc Nguyên, tốt nghiệp Cao học Hành chánh (Sài Gòn), ðã qua các trường Hertford College (Oxford) và David Eccles School (University of Utah). Theo ðuổi “nghiệp báo” sớm, chính thức vào nghề với tờ The Saigon Post từ 1968 tới 1975. Tham gia nhóm nghiên cứu ðổi mới kinh tế của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh trong những nãm 80. Sang Mỹ, anh tiếp tục viết báo, cộng tác với Việt Tribune, Saigon Weekly, Bút Tre và hiện ðịnh cư tại tiểu bang Utah.

1 BÌNH LUẬN

  1. Chuyện Kể Cùng Con Cháu

    Năm ấy giao tranh vừa chấm dứt
    Hoà bình đã ký tại Pa ri
    Hai miền Nam Bắc thôi chinh chiến
    Ngưng bắn dừng quân cởi chiến y.

    Miền Nam trở lại nếp thanh bình
    Êm đềm vui cảnh hết đao binh
    Chỉnh tranh thành phố, xây đường sá
    Đâu biết ngoài kia giặc vẫn rình.

    Cuộc chiến tương tàn giữa Bắc Nam
    Do phe Cộng sản động lòng tham
    Miền Nam trù phú thơm lành quá
    Như miếng mồi ngon trước kẻ gian.

    Nên dù mới ký xong hoà ước
    Giặc vẫn còn nuôi cái ý đồ
    Mở mang bờ cõi cho Vô sản
    Đến tận Miền Nam của tự do.

    Rồi một mùa xuân năm bảy lăm
    Kinh hoàng đổ ập xuống miền Nam
    Từng đoàn thiết giáp từ phương bắc
    Tràn xuống như cơn lốc bạo tàn.

    Dân tộc hãi hùng cuộc biển dâu
    Miền Nam hạnh phúc, đẹp, sang, giàu
    Ngập chìm tăm tối như miền Bắc
    Trở thành hành khất giống như nhau.

    Chỉ có bọn người gây chiến chinh
    Phản nòi theo Các mác Lê nin
    Hồ hởi vênh vang mừng chiến thắng
    Dưới cờ liềm búa đảng “quang vinh.”

    Từ đó hai Miền thành nạn nhân
    Của nền chuyên chính đảng lưu manh
    Nhân danh chủ nghĩa phường vô sản
    Cướp sạch sành sanh cả nước, dân.

    Từ đó quê hương chìm tang tóc
    Địa ngục trần gian trên núi sông
    Triệu người vượt biển tìm đường sống
    Thế giới năm châu cũng chạnh lòng.

    Các con chớ có quên nguồn gốc
    Ta là dân Việt cháu Hùng Vương
    Tránh loài quỉ đỏ nên lưu lạc
    Mong ngày quang phục lại quê hương.

    https://fdfvn.wordpress.com

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên