Chủ trương phòng thủ Nam Việt Nam của Hoa Kỳ

11
RAAF Airfield Defence Guards waiting to leave Nui Dat and begin a patrol. Although stationed at Vung Tau, Airfield Defence Guards often took part in night-time patrols around the Australian Task Force base at Nui Dat. [AWM P01951.008]

Trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975, chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam thay đổi tùy hoàn cảnh, tủy quyền lợi và tùy sự chọn lựa của dân chúng Hoa Kỳ qua các đời tổng thống khác nhau, nhưng suốt trong cuộc chiến, quân đội Hoa Kỳ theo một chủ trương không thay đổi, là chỉ phòng thủ Nam Việt Nam (NVN), không đưa bộ binh tiến đánh Bắc Việt Nam (BVN), ngoại trừ việc gởi phi cơ tấn công các căn cứ quân sự BVN.

CHỦ TRƯƠNG PHÒNG THỦ NAM VIỆT NAM

Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Hoa Kỳ áp dụng chiến lược tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức lấy công làm thủ. Khi can thiệp vào Việt Nam, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) Vì vậy, lần nầy Hoa Kỳ chủ trương giúp Nam Việt Nam (NVN) phòng thủ tại chỗ, chứ Hoa Kỳ không dùng bộ binh tấn công BVN, tránh khiêu khích Trung Cộng, nghĩa là Hoa Kỳ không đánh bắc thủ nam như ở Triều Tiên.

Phòng thủ một vùng đất rộng lớn nhiều rừng núi như NVN rất khó khăn, nhứt là để đối phó với chiến tranh du kích. Du kích là lối đánh quy mô nhỏ, không sắp thành trận tuyến, di động nhanh chóng, bất ngờ đánh nơi nầy, phá nơi khác , không theo quy ước nhất định, trà trộn trong quần chúng và dựa vào quần chúng để được che chở. Du kích cộng sản (CS) hoạt động khắp nước, núp trong bóng tối, khi ẩn khi hiện, nên khó có đối sách hữu hiệu tiêu diệt du kích. Muốn chống du kích là phải chận đứng nguồn tiếp tế cho du kích. Cần chú ý thêm, một dân quân du kích CS không cần huấn luyện chính quy dài ngày, không cần quân trang, quân dụng, quân phục, võ khí đầy đủ theo kiểu hiện đại.

Nguồn tiếp tế võ khí cho du kích CS ở NVN đến từ hậu cứ của CS là BVN. Nếu không đánh BVN, thì nguồn võ khí từ BVN cứ liên tục chuyển mãi vào NVN cho du kích CS ở khắp NVN qua nhiều đường như đường Trường Sơn, đường Lào, đường Cambodia, đường biển. Vì vậy không thể nào tiêu diệt được du kích CS trên toàn cõi NVN nếu không chận đường tiếp tế võ khí từ BVN.

Đô đốc Ulysses Simpson Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (từ 1964 đến1968) đã tiết lộ: “Chính phủ chúng ta [Hoa Kỳ] lập lại rõ ràng nhiều lần rằng các mục tiêu tranh chấp ở Việt Nam rất giới hạn. Chúng ta không được tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc Việt Nam phải thay đổi nhà cầm quyền, và không tàn phá Bắc Việt Nam. Chúng ta chỉ đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngừng điều khiển và yểm trợ Việt cộng nổi dậy ở trong Nam và đưa lực lượng Bắc Việt Nam trở ra Bắc. Chiến lược điều khiển chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn trên đây.” Nguyên văn: “Our Government has repeatedly made it clear that our objectives in the Vietnam conflict are limited. We are not out to destroy the Hanoi regime, or to compel the people of North Vietnam to adopt another form of government, nor are we out to devastate North Vietnam. We simply want North Vietnam to cease its direction and support of the Vietcong insurgency in the South and take its forces home. Our strategy for the conduct of the war reflects these limited objectives.” (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990, http://www.gratisbooks.com/.)

Đáng chú ý là ngày 30-4-1964, ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk nhờ J. Blair Seaborn, trưởng đoàn đại diện Canada trong Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (International Control Commission), báo cho Hà Nội biết chủ trương trên đây của Hoa Kỳ và đề nghị Hà Nội ngưng ủng hộ CS miền Nam để đổi lấy viện trợ kinh tế. Seaborn trình bày lại cho Phạm Văn Đồng, thủ tướng BVN ngày 18-6-1964, nhưng BVN không chấp nhận. (John S. Bowman (tổng biên tập), The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 37. Mark Moyar, sđd. tr. 307.)

QUY TẮC THAM CHIẾN

Do chiến lược phòng thủ NVN, Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn (limited war), không dùng bộ binh tấn công BVN, tránh sự can thiệp của Trung Cộng như vụ Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ còn buộc quân đội của mình phải tuân thủ những quy tắc tham chiến (rules of engagement) tức những quy tắc ứng xử khi lâm chiến, như một thứ cẩm nang chiến tranh. Những quy tắc tham chiến nhắm hai mục đích chính: 1) Giới hạn sự hủy hoại tài sản và thương vong của những người không ở vị trí chiến đấu. 2) Đặc biệt trong những cuộc chiến không có giới tuyến rõ ràng như ở Việt Nam, tránh bắn hay tấn công lầm vào các đơn vị bạn. (Spencer C. Tucker, Editor, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume two, Santa Barbara, California: ABC-CLIO, 1998, tt. 625-626.)

Riêng tại Việt Nam, những quy tắc tham chiến còn nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến có thể làm bùng nổ những tranh chấp bất ngờ ở vùng biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự (vĩ tuyến 17), nhất là do những hoạt động của Không quân. (Spencer C. Tucker, sđd, tt. 625-626.)

Những quy tắc nầy do bộ Quốc phòng soạn thảo, thêm bớt tùy hoàn cảnh và giai đoạn, quy định những hạn chế phức tạp mà quân đội Hoa Kỳ phải tuân hành ở các nước Đông Dương.(J. Terry Emerson, How Rules of Engagemnet Lost Vietnam War, Human Events, Vol. 45, No. 20, May 18, 1985.)

Những quy tắc tham chiến được đề cập trong hồ sơ của quốc hội Hoa Kỳ, ghi lại những phát biểu của thượng nghị sĩ Barry Goldwater, đảng Cộng Hòa, tiểu bang Arizona, nhiệm kỳ 1953-1965 và 1969-1987, ứng cử viên tổng thống, đại diện đảng Cộng Hòa năm 1964, đặc biệt những phát biểu của Goldwater năm 1985, trong Congressional Record-Senate, nhiều số liên tiếp. (Heinonline, Citation: 131 Cong.Res; http://heinonline.org)

Lúc đầu (thời tổng thống Kennedy), trước năm 1965, những Quy tắc tham chiến giới hạn các cuộc tấn công của máy bay Hoa Kỳ như phi công Hoa Kỳ không được phép dội bom các dàn hỏa tiễn Sam do Liên Xô chế tạo đang được xây dựng, và chỉ có thể tấn công khi các dàn hỏa tiễn nầy hoạt động. Phi công và lực lượng trên bộ không được phép phá hủy các phi cơ CS đang đậu trên mặt đất mà chỉ được phép tấn công các phi cơ có võ trang và nguy hiểm trên không.

Quân đội Hoa Kỳ chỉ được tấn công những xe vận tải CS khi đang di chuyển trên đường lộ, nhưng không được tấn công những bãi đậu xe ở cách xa lộ 200 yards (khoảng 182 mét). Phi công Hoa Kỳ phải lơ qua đối với tàu bè đang trên đường tới cảng Hải Phòng dầu những chiếc tàu nầy chuyên chở võ khí có thể được dùng để giết quân đội Hoa Kỳ. (http://centerformoralliberalism.wordpress.com/2009/11/11/why-we-lost-in-vietnam-the-untold-story/ <http://centerformoralliberalism.wordpress.com/%202009/11/11/why-we-lost-in-vietnam-the-untold-story/> Steve Farrell, “Why we lost in Vietnam – The Untold Story”, The Moral Liberal, November 11, 1989.)

Về sau, qua thời tổng thống Lyndon B. Johnson, khi chiến dịch Rolling Thunder bắt đầu oanh tạc BVN, phi công Hoa Kỳ được nới rộng phần nào từ ngày 21-8-1965. Khác với trước đây, từ ngày nầy, phi công Hoa Kỳ được phá hủy những dàn hỏa tiễn Liên Xô mà phi công thấy được trong các chuyến bay không kích BVN. Điều nầy có thể gây thương vong cho quân nhân Liên Xô. (John S. Bowman, sđd. tr. 93.

Ai vi phạm quy tắc tham chiến sẽ bị trừng phạt tùy theo mức độ. Ví dụ đại tướng John Daniel Lavelle, chỉ huy Không lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, bị cất chức tháng 3-1972, hạ hai cấp và về hưu vì ông đã ra lệnh oanh kích những mục tiêu giới hạn, không được quyền oanh kích. (John S. Bowman, sđd. tr.198.) Những quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu tấn công và hạn chế nhiều nhất các hoạt động của không lực Hoa Kỳ, giới hạn việc oanh kích, tránh xa vùng biên giới Hoa Việt.

Trong chiến tranh hiện đại, quan trọng nhất ở chiến trường là hỏa lực yểm trợ. Quân đội CS dựa trên hỏa lực yểm trợ của xe tăng, thiết giáp. Quân đội Hoa Kỳ dựa trên hỏa lực yểm trợ của không quân. Các quân chủng Hoa Kỳ đều có riêng những phi đội chiến đấu hay oanh tạc. (Ngoài Không quân, Bộ Binh và Hải quân đều có phi cơ.)

Quy tắc tham chiến giới hạn hoạt động của phi cơ, sẽ giới hạn toàn bộ hỏa lực yểm trợ, làm giảm sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. Tác giả Steve Farrell, trong sách Why We Lost in Vietnam – The Untold Story, cho rằng “These rules insured that we could not win and that the communists could not lose.” (Tạm dịch: “Những quy tắc nầy bảo đảm rằng quân đội chúng ta [Hoa Kỳ] không thể thắng mà cộng sản không thể thua.” (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam – The Untold Story, University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal.)

Barry Goldwater, thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa bang Arizona, gọi đây là “no win policy” (chính sách không thắng). (The Bryan Times, Thursday April 17, 1975, tr. 6. http://news.google.com/newspapers.)

HOA KỲ NGĂN CHẬN CHỦ TRƯƠNG BẮC TIẾN

Đánh rắn phải đánh đầu. Bứng cây phải đào tận gốc. Muốn dẹp du kích CS tại NVN, thì phải tấn công sào huyệt của du kích ở BVN, chận đứng hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp tế võ khí liên tục của CS, và buộc BVN từ bỏ cuộc tấn công NVN. Nếu không đánh BVN, CS ở NVN liên tục được tiếp liệu về võ khí, kinh tế và cả cán bộ, bộ đội, và nhờ thế CS cứ tiếp tục chiến tranh du kích không ngừng nghỉ, hết chỗ nầy đến chỗ khác.

Các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thấy rõ điều nầy và nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui về phòng ngự đất Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền Nam, hoặc dựa vào đó để thương thuyết với CS, buộc CSBVN chấm dứt tiếp tế du kích miền Nam, như liên quân LHQ đã làm ở Triều Tiên.

Tuy nhiên Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc tiến, không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng ngay các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH. Sau đây có thể kể vài ví dụ:

Ngày 4-5-1964, trung tướng Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ Cabot Lodge mở rộng chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force – Office of the Secretary of Defence, United States – Vietnam Relations 1945-1967, Washington D.C.: 2011. Part IV. C. 1., p. a-7.) Trong cuộc mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến. (John S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt. 42.) Kết quả, Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ. Không biết Hoa Kỳ có nhúng tay vào vụ nầy hay không?

Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư lệnh Quân đoàn I (giáp ranh với BVN) viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến. Tướng Thi cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.) Tướng Thi sau đó bị cách chức vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung, và cũng được đưa qua Hoa Kỳ chữa bệnh “thối mũi”.

Theo hồi ký của cựu đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình). Tuy nhiên kế hoạch nầy không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, Washington D.C.: Vietnambibliography, 2003, tr. 288.)

Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân BVN tiến qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh Quảng Trị, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến KANZUS, chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và bảo vệ miền Nam Việt Nam. KANZUS viết tắt của các chữ Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch KANZUS bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.) Westmoreland không giải thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ từ chối. Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây sự hiểu lầm về sự hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự?

Hành quân Hạ Lào- Nam Sơn 719

Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn tiến qua phía bắc vĩ tuyến 17 như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter , Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH. Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Cuối năm 1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.

Về Không quân, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho Không quân VNCH. Trong năm 1965, khi mở màn tấn công BVN, các phi công VNCH lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà Tĩnh, rồi lại phải quay về liền. Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra BVN nữa. Khi cung cấp phản lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung cấp loại phản lực F-5 và A-37, chứa nhiên liệu ít, nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được, để khỏi tấn công đất Bắc.

Rõ ràng vì chủ trương “chiến tranh giới hạn”, Hoa Kỳ không chấp nhận tất cả những kế hoạch tấn công BVN bằng bộ binh như ở Triều Tiên. Nếu không tấn công hậu cứ CSVN ở BVN để CSVN lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn du kích ở miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của CSVN, để CSVN phải chấm dứt những trận đánh lớn trên khắp NVN. Các tướng lãnh cầm quân Hoa Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù được tăng cường tối đa và được trang bị tối tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận đứng chiến tranh du kích của CSVN.

HOA KỲ LUI QUÂN

Trong khi chiến tranh đang diễn ra, hai yếu tố mới xuất hiện: 1) Phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ càng ngày càng hoạt động mạnh mẽ, đòi chấm dứt chiến tranh, rút thân nhân về nước. Phong trào phản chiến gây xáo trộn xã hội Hoa Kỳ không ít trong một thời gian dài 2) Sự rạn nứt giữa hai cường quốc CS là Liên Xô và Trung Cộng càng ngày càng trầm trọng; cao điểm là chiến tranh biên giới Nga-Hoa ngắn ngày tại vùng đông bắc Trung Hoa trên sông Ussuri (Ô Tô Lý Giang), bùng nổ ngày 2-3-1969.

Sau khi Richard Nixon cầm quyền ngày 20-1-1969, trong niên khóa 1969-1970, xảy ra 1,800 cuộc biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt phá, 462 người bị thương mà hai phần ba (2/3) là cảnh sát và 8 người chết. Nạn bạo động trở thành một bệnh dịch trên toàn quốc HK. Từ tháng 1-1969 đến tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, hay âm mưu ném bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến tranh, gây thiệt hại 21 triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết. (Richard Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)

Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, chuyển giao công việc chiến đấu chống CS cho quân đội NVN và Hoa Kỳ rút quân Hoa Kỳ về nước. Hoa Kỳ cũng giảm thiểu gần như chấm dứt viện trợ cho NVN. Phong trào phản chiến từ từ giảm dần cho đến khi Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris với CSVN ngày 27-1-1973.

Trong khi đó, nhận ra được sự mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa (NVN), bắt tay với Trung Cộng năm 1971, và nhờ Trung Cộng áp lực BVN ký hiệp định Paris, để Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, mà BVN vẫn lưu quân tiếp tục ở lại NVN và tiếp tục tấn công VNCH.

Vì tham vọng quyền lực, bành trướng chủ nghĩa, cộng sản BVN được sự viện trợ to lớn của Trung Cộng, Liên Xô và khối CS, động binh quyết đánh chiếm NVN. Nam Việt Nam không đủ sức chống đỡ cả khối CS, phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và đồng minh. Tuy nhiên, khi cần thì Hoa Kỳ đến, tung hô NVN là “tiền đồn thế giới tự do”. Khi không cần thì Hoa Kỳ bỏ cuộc ra đi.

Sau hiệp định Paris (27-01-1973), NVN một mình can đảm tiếp tục chiến đấu chống lại cả khối CS đang dồn sức cho BVN tấn công NVN, thì bộ trưởng Ngoại giao của Hoa Kỳ là Henry Kissinger lại còn trù ẻo NVN: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài. (Lời của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật lại trong sách It Sure Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 98. Nguyễn Tiến Hưng trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, INC., 1987, tr. 512.).

Cuối cùng, vì thiếu võ khí, đạn dược, nhiên liệu, NVN sụp đổ ngày 30-4-1975.

KẾT LUẬN

Nói chung, chính sách của Hoa Kỳ dưới thời bất cứ tổng thống nào cũng chỉ phục vụ quyền lợi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ can thiêp vào NVN để giúp NVN chống lại BVN, nhằm ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa CS, nhứt là sự bành trướng của Trung Cộng xuống Đông Nam Á. Đây là cách Hoa Kỳ phòng thủ từ xa để CS không lây lan rộng lớn và lây lan sang tận Mỹ Châu.

Do kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ quan ngại sự can thiệp của Trung Cộng nên Hoa Kỳ chỉ giúp NVN phòng thủ ở NVN, không đưa bộ binh tiến ra BVN. Chỉ khi cần, Hoa Kỳ gởi phi cơ oanh tạc các mục tiêu quân sự ở BVN. Chẳng những thế, Hoa Kỳ còn ngăn cản sáng kiến của các tướng lãnh VNCH bắc tiến để chận đứng CS miền Bắc tiếp tế cho du kích CS miền Nam. Không đánh BVN để chận đường tiếp tế cho du kích CS, mà chỉ phòng thủ NVN thì không thể diệt hết du kích được.

Chủ trương phòng thủ ở NVN, quân đội Hoa Kỳ có thể chiến thắng từng trận một, từng nhóm du kích địa phương, mà không tiêu diệt được du kích trên toàn quốc, không ngăn chận được làn sóng CS đúng như mục đích ban đầu. Trong khi đó, số tử vong mỗi ngày một ít, nhưng “tích tiểu thành đa”, lâu ngày cộng lại thành nhiều, khiến dân chúng Hoa Kỳ ở hậu phương xa xăm lo ngại. Phong trào phản chiến lên cao, làm cho xã hội Hoa Kỳ xáo trộn, nhứt là ở các đại học, nơi sinh viên ở độ tuổi quân dịch.

Cuối cùng, không thua trận nào trên chiến trường, nhưng quân đội Hoa Kỳ phải rút lui, xem như Hoa Kỳ thất bại trong chủ trương phòng thủ Nam Việt Nam.

(Toronto, 6-8-2018)

TRẦN GIA PHỤNG

11 BÌNH LUẬN

  1. Cựu ngoại trưởng Henry Kisssinger bị dân Mỹ kêu gọi phải bị khởi tố vì sự sụp độ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa : Ngày 29 tháng 1, 2015, tại cuộc điều trần trước Thượng Viện Mỹ, Tiểu ban về Ngoại giao, trong nghị trình về những thách thức toàn cầu và chiến lược an ninh quốc gia Mỹ tại Capitol Hill, cựu bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger đã bất ngờ bị đối diện với một nhóm hoạt động xã hội có tên gọi là CodePink. Nhóm này đã xông thẳng vào nghị trường và hô to các khẩu hiệu đòi đưa Henry Kissinger ra tòa vì đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và nhiều quốc gia khác trong thế kỷ 20, gây nên tai họa tàn khốc cho nhiều dân tộc. Những người trong nhóm hòa bình CODEPINK đã giương khẩu hiệu, gọi Henry Kissinger là tội phạm chiến tranh. Một người đã tiến tới gần Henry Kissinger và giơ chiếc còng số 8 vào mặt ông ta.

    Mặc dù bị áp giải ra khỏi nghị trường ngay sau đó, nhưng nhóm hoạt động CodePink nói rằng họ thực sự tự hào về hành động của mình tại Thượng viện ngày 29 tháng 1, 2015, vì đã thay mặt cho nhân dân Đông Dương, Trung Quốc, Đông Timor và nhân dân yêu chuộng hòa bình ở khắp mọi nơi, nói vào mặt của Henry Kissinger về tội ác của ông ta. Medea Benjamin, người đồng sáng lập tổ chức CodePink nói rằng “Henry Kissinger phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người. Ông ta là một kẻ sát nhân, một kẻ nói dối, một kẻ lừa đảo, và là một kẻ côn đồ. Ông ta cần phải được đưa ra trước vành móng ngựa tại Hague.”

    Những người biểu tình từ nhóm CodePink đã hô vang, “Phải bắt giữ Henry Kissinger vì tội ác chiến tranh!”. Những tiếng hô này càng lớn hơn ngay khi Kissinger bước vào phòng họp của Thượng viện.

    “Di sản thật sự của Kissinger để lại chỉ là sự hủy diệt. Ông là nhân vật phản diện vĩ đại của Mỹ.” Anna Kaminski, thành viên của nhóm CodePink nói với báo chí.

  2. Nhà bỉnh bút quân sử thế giới nổi tiếng Louis A Fanning:‘ Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300000 bộ đội Cộng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lãnh thổ của nước khác. Ðó là Miền Nam Việt Nam, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội , và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, Việt Nam Cộng Hòa là một đồng minh với Mỹ từ khuya , lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều. Ðúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đã bị thế giới tự do coi thường, vì đã bội tín với nhiều đồng minh của mình.

    Sử gia Bill Laurie : Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần 90% là bộ đội miền Bắc, được đưa ra trận để đánh bại quân lực Việt Nam Cộng Hòa . Hà Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng khổng lồ và hiện đại như họ đã ném vô trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa từng rút ra tất cả các đơn vị từ Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc Việt lâm chiến hồi Tết 1968, trong khi về phẩm, còn có hằng trăm đại bác tầm xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và nguyên một kho vũ khí hiện đại. Đoàn quân viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần khả năng chiến đấu của lực lượng cộng sản hồi tết Mậu thân 1968.

  3. Quan niệm của người Mỹ khi đổ quân vào miền Nam năm 1965 là họ đánh nhau như đánh ở Đệ Nhị Thế Chiến hay đánh ở Đại Hàn. Nghĩa là đánh tan được lực lượng đối phương trên mặt trận tức là thắng. Vì thế mà họ dùng chiến thuật “Lùng và Diệt” để đánh tan lực lượng đối phương. Chiến thuật này không thành công vì phía Cộng Sản né tránh đánh các trận lớn. Sau trận Mậu Thân, cả người Mỹ lẫn những người lãnh đạo VNCH thấy là phải phối hợp chiến tranh ngoài mặt trận cùng với kiểm soát trong xã hội, không cho cán bộ cộng sản lén lút hoạt động. Về sau này, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có nhờ ông Robert Thompson làm cố vấn để chống lại sự xâm nhập của cộng sản giống như ông Diệm thời xưa đã từng làm. Những năm 1970 trở về sau, cách thức chống cộng phối hợp giữa chiến tranh ngoài mặt trận với kiểm soát xã hội có tác dụng ngăn cản sự hoạt động của cộng sản tại miền Nam khá hữu hiệu. Cộng sản phải đem lực lượng từ miền Bắc vào vì lực lượng ở miền Nam rất yếu do VNCH kiểm soát xã hội chặt chẽ hơn.

  4. Winston Churchill dông Nam á. Xin xem tài liệu của Lê xuân Nhuận , Johnson cũng gọi TT Diệm là thằng Nhóc mà chúng ta có nơi đây ? Tóm lại Tin vào Mỹ chúng ta sẽ Chết , không có thằng ngoại bang nào nó thương dân mình , cs Vn nó cũng biết nên đu dây , được lúc nào hay lúc đó ,Hoa kỳ không tuyên chiến với cs Bv chuyện thua trận là chuyện tuyên truyền , Mỹ đã rút quân ra khỏi Vn sau khi ký hiệp đinh ba Lê năm 1973 ,chỉ còn văn phong tuỳ Viên Quân sự ,và cơ Quan DAO , thua ở chổ nào ? Mỹ rút Quân có lịch trình , đâu có tháo chạy như Vnch mà thua , Mỹ đánh không cần thắng sau 12 ngày đêm nó dội bom Bắc Việt rồi ngưng cho Bắc Việt thở. Sam hết tiếp liệu cạn kiệt , Tình báo Mỹ biết rõ , nhưng tại sao Mỹ không diệt Bắc Việt ,nó nuôi và bán đứng Vnch cho Chiến lược sau nầy ,Thế giới cs xụp như chúng ta thấy ,bây giờ nó nuôi csvn để chọc bên hông Tàu ,đợi xem

  5. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 : Phải chăng vì Hoa kỳ chủ trương ” đánh không cần thắng ”” Cứ đánh cù cưa rồi sẽ đến lúc Cộng sản sẽ nản lòng và rút lui ” nên đã không viện trợ cho ngưới lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều những vũ khí tối tân ngang với những vũ khí mà khối Cộng cung cấp cho quân Cộng sản Bắc Việt?!

    ***” Thép Và Máu”- Đại tá Hà Mai Việt : Trận chiến Tân Cảnh- mặt trận Dak to II: …Ngay lúc đó 2 chiến xa M41 thuộc chi đoàn 1/14 Chiến Xa liền đưọc điều động và tác xạ, mỗi chiến xa M41 bắn 3 phát đạn 76 ly vào sườn tây của chiến xa địch T-54. Lúc ấy cố vấn Carden nhìn thấy chiếc T-54 bị trúng đạn và bốc khói nhưng chưa bị hạ . Chiến xa T-54 vỏ thép dày 105 ly, nặng 36 tấn đã phục hồi mau lẹ, rồi phản công, bắn hạ một chiến xa M41 bằng 2 trái đại bác 100 ly, và ngay sau đó hạ chiếc còn lại bằng trái thứ ba…. Đúng 4 giờ sáng 2 chiến xa PT-76 của Cộng quân tại bắc kho đạn bắt đầu tấn công. Chi đội 1/1 Chiến Xa khai hoả bắn trúng 2 PT- 76, nhưng chúng không cháy mà chỉ nằm quay ngang trước cổng kho đạn. Để phản công, địch quân phóng hoả tiễn AT-3 vào chi đội 1/1 Chiến Xa do thiếu úy Trần Nhuần chỉ huy. Chiến xa chỉ huy bị trúng đạn, thiếu úy Nhuần chết ngay tại chổ.

    -***Do đâu mà người lính bộ binh Việt Nam Cộng Hoà ở An lộc đã có thể diệt được xe tăng của quân Cộng sản Bắc Việt ?”:

    Trung tá Nguyễn Ngọc Anh : “…trước khi được trực thăng vận vào An Lộc, trung đoàn 8 bộ binh ( sư đoàn 5) tình cờ tìm thấy trên 2.000 khẩu súng chống chiến xa M-72 của quân đội Hoa Kỳ còn để sót lại trong một hầm súng tại căn cứ Trị Tâm. Khi vào An Lộc, trung đoàn 8 đã mang theo đầy đủ loại khắc tinh chống chiến xa đó, và tất cả các cấp từ sĩ quan cho đến binh sĩ của trung đoàn này đều được huấn luyện và hướng dẩn cách xử dụng M-72, số súng còn thừa, trung đoàn 8 chia cho trung đoàn 7 và liên đoàn 3 biệt động quân xử dụng”. ( Trần Văn: Loại súng chống chiến xa M-72 này khác với loại M-72 đươc trang bị cho người lính Việt Nam Cộng Hòa ở chiến trường Hạ Lào)

  6. Đồi 31 – Chiến trận Hạ Lào 1971: Phải chăng vì Hoa kỳ chủ trương ” đánh không cần thắng ”” Cứ đánh cù cưa rồi sẽ đến lúc Cộng sản sẽ nản lòng và rút lui ” nên đã không viện trợ cho ngưới lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều những vũ khí tối tân ngang với những vũ khí mà khối Cộng cung cấp cho quân Cộng sản Bắc Việt?!

    Phan Hội Yên : Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, loại M72 trang bị cho chúng tôi là loại cũ, nhiệt độ phát ra từ đầu nổ của hỏa tiễn chỉ đủ sức để công phá hầm hố, công sự, không đủ sức xuyên phá vỏ thép xe tăng. Chúng tôi cố gắng dùng hết hỏa lực trì hoãn bước tiến của xe tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép chiến xa dù các chiến binh đã thừa gan góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau, hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác và đại liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích của địch càn lên chiếc hào, xé Trung Đội chúng tôi ra làm hai mảnh. Đã bắn hết số M72 để gãi ngứa chúng. Đã ném không biết bao nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng. Đã chỉa nòng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính mắt mèo…không lẽ lấy răng mà cắn? Chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn đau tuyệt vọng của những chiến sĩ bị thương không còn người cứu chữa đang nằm chờ chết.

  7. Hạ Lào 1971 : Phải chăng vì Hoa kỳ chủ trương ” đánh không cần thắng ”” Cứ đánh cù cưa rồi sẽ đến lúc Cộng sản sẽ nản lòng và rút lui ” nên đã không viện trợ cho ngưới lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều những vũ khí tối tân ngang với những vũ khí mà khối Cộng cung cấp cho quân Cộng sản Bắc Việt?!

    Đại tá Trần Đỗ Cẩm : Tin tình báo của Hoa Kỳ trước đây cho biết địch quân không có chiến xa tại Hạ Lào và chiến xa địch từ nơi khác không thể tới vùng hành quân mà không bị phát hiện. Nhưng thực tế cho thấy địch quân xử dụng thiết giáp tại chiến trường. Nguy hiểm hơn nữa, ngoài chiến xa lội nước hạng nhẹ PT-76, địch còn có cả các chiến xa hạng trung loại T-54 có thiết giáp dầy hơn và súng 100 ly bắn xa hơn các chiến xa M-41 của Lữ đoàn 1/Thiết kỵ. Cộng quân chẳng những có cả một Trung Ðoàn Thiết Giáp mang bí số 202, mà còn có cả chiến xa T-54 với thiết giáp dầy hơn và đại bác 100 ly có hỏa lực trội hơn chiến xa hạng nhẹ M-41 chỉ được trang bị đại bác 76 ly của Lữ đoàn 1/Thiết kỵ . Phần lớn các tài liệu của Hoa Kỳ nói về trận Hạ Lào, kể cả tập tài liệu “Lam Son 719” của chuẩn tướng Nguyễn Duy Hinh viết tại Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 1977 đều xác nhận Công quân có chiến xa T-54 tại Hạ Lào.

    Pháo binh địch với các loại trọng pháo 130 ly và 122 ly rõ ràng chiếm lợi thế vì có tầm bắn xa hơn hẳn những đại bác 105 ly và ngay cả 155 ly của quân lực Việt Nam Cộng Hòa .

  8. Kính gửi Tác Gia,
    Thưa Ông Trần Gia Phụng, tôi xin gửi đến Ông lời Cảm ơn thành thật của tôi.
    Nhờ những bài viết của Ông về cuộc chiến ở Miền Nam VN, nên tôi có đủ những tài liệu để chỉ ra cho con cái của tôi, bộ mặt thật của cuộc chiến và đồng thời thấy rõ cái lý do vì sao VNCH đã thua trong trận chiến chống xâm lăng đó.
    Đáng lẽ, như tiền nhân đã nói : Bại quân chị tướng , bất khả ngôn dũng ( người tướng bai trận thì không thể nói mình là Dũng Cảm !).Tướng con không thể nói thì huống hồ tôi chỉ là 1 người lính ?
    Nhưng đây là Lịch sử, nghĩa là phải nói rõ Sự Việc đã qua, mà phải Trung Thực. Và , Ông đã làm đúng như thế.
    Hình ảnh “phải” thua trận một cách “oan bức” của quân dân VNCH, đã được Ông trình bày rõ ràng với những dẫn chứng, không chỉ từ phía VNCH, mà còn do chính cái miệng của người Mỹ tự thú ra.
    Một lần nữa ,xin chân thành cảm ơn Ông !

  9. Trong khi phe địch quyết tâm chiến thắng chiếm cho được miền Nam – cho dù có phải hy sinh đến hàng triệu triệu binh lính , thì phe ta lại chủ trương ” đánh không cần thắng ” và mơ tưởng viển vông rằng ” địch sẽ nản lòng và rút lui vì bị chuốc lấy thiệt hại cao “. Kết cục là cái chiến lược ngây thơ, ngù ngờ này đã khiến người Mỹ phải tháo chạy, còn miền Nam thì bị tống táng vào ” thiên đường mù Cộng sản” !

    Phe ta: Tổng thống Lyndon Johnson,trong diễn văn đọc trước American Alumni Council ngày 12-7-1966 , đã khẳng định: “Chúng ta không có ý tiêu diệt Bắc Việt. Chúng ta không có ý thay đổi chính quyền tại đó. Chúng ta không có định thiết lập căn cứ quân sự vĩnh viễn tại miền Nam. Chúng ta đưa quân đến Nam Việt Nam cốt để thuyết phục Bắc Việt nên chấm dứt xâm lăng các nước lân bang, và chứng tỏ cho Hà Nội biết rằng chiến tranh du kích do nước này gây ra chống nước kia sẽ không thể có kết quả. Chúng ta cần Bắc Việt biết giá xâm lăng của họ sẽ rất cao để họ chọn lựa giữa thương thuyết hay đơn phương chấm dứt cuộc xâm lăng “.

    Tài liệu giải mật của Mỹ công bố ngày 25-7-2006 cho biết ngày 22-6- 1972, Kissinger đến Bắc Kinh gặp Chu Ân Lai và đã nói với Chu Ân Lai: “Chúng tôi không nhắm tiêu diệt Hà Nội và ngay cả chuyện thắng Hà Nội, chúng tôi cũng không nghĩ đến. Nếu có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Quốc, thì chúng tôi cũng có thể chấp nhận một chính phủ cộng sản ở Ðông Dương.”

    Phe địch: Ký giả Stanley Karnow – tác giả cuốn sách ” Việt Nam: Một lịch sử ” ( Việt Nam: A history): ” Theo tôi, cuộc chiến ở Việt Nam là không thể thắng được vì một lý do đơn giản và căn bản là chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù đã chuẩn bị cho sự tổn thất nhân mạng không giới hạn. Họ tiếp tục chiến đấu vô thời hạn.

    Trong cuốn sách Comrades in Arms How the Ameri-Cong Won the War in Vietnam Against the Common Enemy— America, tiến sĩ Roger Canfield thuật lại rằng Hồ Chí Minh đã nói rằng: Cứ một người mà chúng tôi giết đi của quý vị thì quý vị có thể giết lại mười người của chúng tôi, nhưng cho dù tỷ lệ chênh lệch đến mức như vậy thì quý vị cũng sẽ thua và tôi sẽ thắng.

  10. Theo trang mạng http://strategicstudiesinstitute.army.mil thì quân đội Việt nam Cộng hoà và Hoa kỳ sở dĩ không đổ bộ ra Bắc Việt là vì Hoa kỳ không muốn Cuộc Chiến Việt Nam sẽ nổ to ra với sự tham dự chính thức của Tàu cộng. Mầm mống đe doạ này lúc đó đã đang có sẵn với 320000 lính Tàu cộng hiên diện ở trên đất Bắc. Vả lại, Hoa kỳ và Tàu cộng đã thoả thuận rằng ” miễn là quân đội Hoa kỳ không tấn công ra Bắc hay tấn công Tàu cộng , Tàu cộng sẽ không trực tiếp nhảy vào cuộc chiến “.

    Thống Tướng Westmoreland – cựu tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam – “Chúng ta đã tham dự một cuộc chiến mà bị (chính trị) trói một tay, một cuộc chiến tranh chỉ được hòa mà không được phép thắng “. Thống Tướng Westmoreland cũng nói rằng vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá hủy đường mòn Hồ chí Minh.

    Ông Ronald Reagan khi còn là thống đốc California đã nói “Chúng ta thua vì chính phủ Liên Bang không cho phép chiến sĩ của ta thắng.” – Ấy thế mà vào năm 2004, tổng thống W. Bush – thời chiến tranh Việt nam, không phải đi đánh trận ở Việt nam vì vận động được phục vụ trong lực luộng vệ binh quốc gia tiểu bang Texas- lại đổ lỗi rằng “Người dân miền Nam Việt nam ngày nay không có tự do là vì khi trước, họ đã không chịu chiến đấu cho tự do “!

  11. Trich: …”khi cần thì Hoa Kỳ đến, tung hô NVN là “tiền đồn thế giới tự do”, để rồi độ mười năm sau, người Mỹ đã phủi đít ra đi sau khi đã đạt được mục đích, mặc cho VNCH đơn thân chống đỡ CS quốc tế cho đến lúc gục ngã!
    Năm xưa, TT Johson đã có lúc gọi TT Ngô Đình Diệm là “Winston Churchill của Á châu” (tháng 12/ 1962), để rồi không đầy một năm sau, người Mỹ phải nhổ “cái gai Ngô Đình Diệm” để được mặc tình thực thi chính sách leo thang chiến tranh ở VN.
    Đừng trách người Mỹ độc ác. Họ phải hành động cho quyên lợi và sự sống còn của nước Mỹ. Ở thời điểm 1963 ấy, Mỹ buộc phải đổ nửa triệu quân vào VN. Ngay cả TT của họ là Kennedy, mới hó hé kế hoạch rút khỏi VN cũng bị họ thanh toán không thương tiếc. Việc TT Kennedy bị giết trước hàng ngàn nhân chứng đã hơn nửa thế kỷ nay vẩn chưa tìm ra ai là chánh phạm đã nói lên điều đó.
    Tiếng là bảo vệ “tiền đồn của thế giới tự do”, nhưng thực ra, người Mỹ đổ người, đổ của vào miền Nam để CS Nga lẫn Tàu phải nhập cuộc, nghỉa là ít ra cũng phải đổ hết của cải, vật lực vào chiến tranh VN thì mới mong “thắng” được Mỹ! Chính vì vậy mà người Mỹ tuy “tham chiến” ở VN, nhưng họ chỉ đánh xập xình, đánh cầm chừng, chứ không đánh cho thắng. (Bài viết này của GS Trần Gia Phụng đã nói rõ điều này). Mãi đến năm 1971, khi tình báo Mỹ cho biết LX đã đổ quá nửa GDP vào kinh phí quốc phòng, nghĩa là chẳng còn bao nhiêu để lo cho miếng ăn của người dân nữa, thì người Mỹ đã đạt được một mục đích. Xin xem bài trang web dưới đây thì thấy: https://nintil.com/2016/05/31/the-soviet-union-military-spending/
    Mục đích thứ hai là phải mặc cả với TC để người Mỹ rút quân khỏi VN sao cho an toàn và có lợi cho hai bên (Mỹ và TC). Chuyến viếng thăm TC của Nixon vào tháng 02/ 1972 đã giải quyết thỏa đáng điều này. Ngay sau chuyến đi lịch sử của TT Nixon, cả TC lẫn Mỹ xúi hai thằng đàn em Bắc Việt và VNCH đánh nhau một trận chí tử vào mùa hè đỏ lửa 1972 để buộc cả hai bên phải ngồi vào bàn hội nghị. Quái thai HĐ Paris 1973 ra đời từ đó. Có ngu dốt mấy cũng thấy đây là một văn kiện bán đứng miền Nam, là một bản án tử hình treo trên đầu VNCH, không hơn không kém! Mục đích của HĐ này quá rõ ràng: chỉ cho VNCH sống cầm chừng và sẽ sụp đổ sau khi Hoa Kỳđã rút hết người của họ về nước!
    Tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ quả có “thua trận” và “tháo chạy” khỏi VN, điều đó ai cũng thấy. Nhưng về sau, khi khối CS sụp đổ tan tành, kể cả nơi xuất phát ra nó là Liên Bang Xô Viết, có mấy ai biết chỉ độ hai mươi năm trước, người Mỹ và nhân dân VN (ở cả hai miền) đã đào những nhát cuốc đầu tiên để chôn vùi chủ nghĩa CS ngay trên chiến trường VN ?
    Hơn hai triệu quân dân VN ở cả hai miền và 58 ngàn tử sĩ Mỹ đã nằm xuống ở VN, đổi lại là sau này, Hoa Kỳ và thế giới tự do đã đánh bại cộng sản mà không tốn thêm một giọt máu, một viên đạn nào khác!
    Thế giới tự do cần phải biết điều này để nhớ ơn người dân VN Ở CẢ HAI MIỀN.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên