Chết đuối trên cạn

8

Mến tặng Hoàng Mai: Trong suốt 55 năm chung sống, phải chăng chúng ta tuy hai mà một

Đặng Ngọc Thuận

Tất cả sự việc kể trong bài tiểu sử này đều có thật, trải nghiệm bởi chính tác giả .

Chỉ còn vài ngày nữa thôi, tôi đã đủ 90 tuổi. Nhìn lạ cuộc đời trôi nổi từ Bắc xuống Nam rồi sang Quebec, tôi thấy Ông Trời sắp đặt cho tôi một số phận thật nhiều ‘vào tử ra sinh’. Chỉ xin kể lại đây những sự việc quả thật ‘chết 7 còn 3’ mà thôi. Để rồi xin kết thúc bằng câu chuyện ‘chết đuối trên cạn’ xảy ra cho tôi mới mấy tuần trước, ngay trên giải đất Canada ‘đất lành chim đậu’ này !’Thế nhưng các bạn trượt tuyết trên núi coi chừng tuyết đổ ầm ầm từ trên cao xuống chôn kín người, ngộp mà chết. Trường hợp của tôi khác hẳn.

Năm 1945, tôi mới 11 tuổi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, học hành dốt nát từ trường tiểu học Hàng Than đến trường trung học Chu Văn An. Song tôi đã thấy tận mắt cảnh Cộng Sản đội lốt Việt Minh, cướp đoạt chính quyền Quốc Gia. Rồi thực dân Pháp lăm le chinh phục lại Đông Dương, khởi đầu là những đô thị lớn như Saigon, Hà Nội. Gia đình tôi phải tản cư mới đầu đến làng Đại Từ là quêngoại của tôi thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, dần dà trôi dạt đến một làng mà tôi quên mất tên, thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Tại đây tôi mắc bệnh thương hàn. Thời ấy đã ai biết Tifomycine là món thuốc gì nên bệnh nhân chỉ còn uống nước cháo vì sợ lũng bao tử và… nằm chờ chết! Thầy mẹ tôi mướn một bà lão lưng còng mắt toét thường trực chăm sóc tôi bên giường. Thật sự tôi như một con cá  mắm luôn miệng hỏi ‘mấy giờ rồi hả u ?‘ Bà lão thì thầm với bố mẹ tôi’ ‘Cậu ấy hỏi giờ để đi đấy’. Đi đâu? Tôi còn trẻ quá mà! Thế rồi như có một sức mạnh vô hình thúc dục, con cá mắm ngồi dậy đòi ăn và xuống giường biến thành một bộ xương biết đi trong nhà.Tôi ăn lại bữa người béo tròn trùng trục, tóc rụng hết nên đầu trọc lốc như một nhà sư. Sau khi xém chết vì bệnh thương hàn, tôi lại chỉ nghĩ đến chuyện đi học lại. Cả huyện Ý Yên chẳng có lấy một trưòng trung học song may thay tôi có ông cậu ruột là BS Nguyễn Đình Hoằng cho tôi được theo học cùng cô con gái do chính ông chỉ dẫn vô cùng tường tận. Trí óc tôi bỗng mở toang ra để hiểu thế nào là Toán học, thế nào là Hóa học, vân vân và vân vân. …Một lần tôi thoáng nghe ông kể công với mẹ tôi „Chị có biết tôi là người đã kéo thằng Thuận ra khỏi vũng bùn lầy của sự ngu dốt không?”

Cuộc chiến Việt-Pháp ngày càng khốc liệt. Máy bay của đoàn quân viễn chinh áp dụng một chiến thuật khủng bố rất kỳ quặc và dã man để xua dân về thành thị họ đang chiếm đóng cho thêm tấp nập và phồn thịnh. Ấy là từ trên không, dùng súng liên thanh bắn bừa bãi xuống đám dân lành ở dưới đất. Một bữa tôi theo mẹ tôi đi phiên chợ làng, đang ở trong chợ thì nghe tiếng súng nổ liên hồi khắp nơi và tiếng la hét: „Máy bay,máy bay, Tây nó bắn!”… Mẹ con tôi vội vàng bỏ chợ theo một con đường đất chạy về làng. Song một chiếc máy bay đuổi theo bắn một tràng đại liên về hướng chúng tôi, mẹ con tôi đã nằm rạp xuống mặt đường. Tôi đứng dậy và thấy rõ ràng trên mặt đất một lằn đạn giữa mẹ tôi và tôi. Mẹ con tôi vừa xém chết trong giây phút. Thật là hú hồn! Riết rồi gia đình tôi cũng phải cuốn gối ‘’dinh tê’’ về Hà Nội. Tôi xin được vô học trong trường trung học Pháp Albert Sarrault, một trường ‘quí phái’ trước kia chỉ dành cho’con ông cháu cha’ mà thôi. Tôi học một lèo thi đậu Tú Tài toàn phần Pháp rồi PCB và lên Đại Học Y khoa. Tất cả mất khoảng 15 năm trời. Ngày cấp bằng Y Khoa Bác Sĩ ở Saigon tôi chẳng vui chút nào mà trong lòng rầu rĩ vô cùng vì nghĩ đến cha mẹ và các em tôi bị kẹt lại ở miền Bắc. Quả thật năm tôi học năm thứ 2 Y khoa thì Hiệp Định Genève giữa VM và Pháp đã cắt đôi nước VN làm 2 miền Bắc Nam bất khả liên lạc. Tôi theo trường vào Nam, hứa chắc với cha mẹ sẽ ra Bác Sĩ và trở về với gia đình. Song thời thế đã không cho phép tôi giữ lời hứa và tôi đã gia nhập Quân Lực VNCH, cùng lúc với biết bao đồng nghiệp khác.

Trong khi phục vụ tại QYV Qui Nhơn, một hôm ông chỉ huy trưởng Y Sĩ Đại Úy có hỗn danh là „Bếp” (do ngoại hình và cá tính mà ra) cho biết tuần tới tôi phải lên Pleiku đi trưng binh, song ông ta đã phản đối với cấp trên. Vậy tôi cứ yên tâm làm việc. Thật ra ông chẳng phản đối chi cả và đi Pleiku tôi cũng chẳng ngại ngùng gì. Ông chỉ muốn không phải thay thế tôi săn sóc các thương bệnh binh mà để vì tư lợi thản nhiên đi làm phòng mạch tư của ông. Xế chiều ngày giáp chót phải trình diện tại Pleiku, ông mới lạnh lùng ra lệnh: „Nội đêm nay toa phải lên Pleiku trình diện. Moa cho toa mượn tài xế và chiếc xe Jeep của moa, lấy đường số 9 mà đi”. Lúc ấy đường số 9 do VC chiếm đóng và kiểm soát. Vào đó số tử là cái chắc và ra sinh cũng là tù binh (nhập tử xuát sinh) của quân Bắc Việt. Nói chuyện với Bếp hoàn toàn vô ích vì ông nổi tiếng là có môt thứ bướng bỉnh nhà quê một cách kỳ lạ. Song có thân muốn giữ thì phải tự lo liệu lấy. Tôi vội chạy đi tìm một người bạn thân là Đại Úy Minh, sĩ quan liên lạc viên giữa tướng Đính và Chỉ Huy Trưởng tiểu đoàn trực thăng Mỹ đóng tại Qui Nhơn. Anh Minh rất tốt chạy ngay đi yêu cầu người Mỹ cho một chiếc trực thăng để tôi bay thẳng lên Pleiku một cách an toàn. Thế là tôi thoát chết.

Công tác hoàn tất xong, tôi từ Pleiku bay thẳng về Saigon trình diện tướng Hoàn, chỉ huy trưởng cục Quân Y để xin xóa bỏ báo cáo láo tôi đào ngũ của Bếp.Tướng Hoàn ôn tồn nói tôi về nhà nghỉ ít ngày rồi sẽ được bổ nhiệm phục vụ tại Viện Bài Lao Ngô Quyền ở Thủ Đức.

Thời gian phục vụ tại Viện Bài Lao Ngô Quyền tôi được yên ổn làm việc. Không những thế tôi còn được du học ở Tripler General Hospital, Hawai và tôi còn mở được một cái phòng mạch tại chân cầu Tân Thuận,nhỏ bé song đông khách không ngờ.Thế rồi hạnh phúc lớn đã đến với tôi. Trong khi đi lại giữa 2 nơi làm việc là quận Thủ Đức và cầu Tân Thuận, tôi thấy trong một nhà thuốc mới mở ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có một cô bán thuốc xinh đẹp rất hợp mắt tôi. Tôi giả đò vô nhà thuốc hỏi mua thuốc song thật ra để làm quen với cô ta. Thế rồi tôi say mê nàng lúc nào không biết, chỉ biết một hôm tôi xin hỏi cưới nàng và được nhận lời ngay. Thế là tôi đã có gia đình. Rồi tôi được biệt phái làm bác sĩ thường trú tại BSV Hùng Vương.Tôi dời phòng mạch về ngay xế cửa BSV Hùng Vương chuyên khám về sản phụ khoa. Nhà tôi sanh cho tôi 2 babies thật cute (xinh xắn và dễ thương) mặc dầu là con trai. Cháu đầu tiên được đặt tên là Kỳ Nam để ca tụng Miền Nam kỳ diệu và cháu thứ hai là Kỳ Phát để đánh dấu quãng đời xây dựng sự nghiệp bỗng nhiên thành công và phát triển 1 cách kỳ lạ. Sau này Kỳ Nam ra bác sĩ cấp cứu (urgentologue) và Kỳ Phát là luật sư chuyên về tài chánh (financial attorney-at-law).

Thế nhưng, chẳng mấy lúc mà tất cả những gì tôi đã xây dựng được đều tiêu tan như nước lã ra sông ra biển. Đấy là kết quả năm 1975 Việt Cộng chiếm đoạt toàn thể Miền Nam vì người Mỹ bỏ rơi VN Cộng Hòa. Ông giám đốc cùng đa số bác sĩ đã cao chạy xa bay. Với tư cách là bác sĩ thường trú, tôi ngẫu nhiên là nhân vật đứng đầu bệnh viện song trong lòng đầy lo lắng và buồn rầu. Tôi ra trước cửa bệnh viện nghe ngóng tình hình thì bỗng nhiên nghe nhiều tiếng nổ xuất phát từ trại lính bên cạnh bệnh viện rồi một tiếng xoạt rất mạnh ngang vành tai trái tôi. Đường đạn lạc chỉ trật sang phải một ly là tôi ngã gục xuống chết bất đắc kỳ tử tại chỗ! Thật ra thì đám lính tan hàng ngay sát bệnh viện đã nổ súng bậy bạ, gây thêm hỗn loạn trong thành phố đang thất thủ. Riêng tôi thì xém chết, không biết lần nầy và bao nhiêu lần khác nữa.

Tôi bị bắt đi học tập cải tạo. Khi được thả về, đến nhà là vợ chồng tôi nghĩ ngay đến chuyện vượt biên bằng đường biển trốn ra nước ngoài, như nhiều người đã làm thành công.. Chúng tôi bị lừa nhiều lần tiền bạc sắp ráo cạn. Cho đến mãi cuối năm 1979 cả nhà mới đi thoát được. Song trên chiếc tàu chứa hơn 300 mạng người lạc đường, hỏng máy, lênh đênh cả tháng trời trên biển, gia đình chúng tôi bị đói khát cùng cực thêm cướp biển Thái Lan hoành hành lấy hết của cải.

Một lần có 1 chiếc tàu cướp biển còn dở trò nhân đạo, bỏ neo cách tàu chúng tôi khoảng 200m, giơ đồ ăn thức uống ra dứ chúng tôi, muốn thì phải lội sang lấy. Tôi chẳng giỏi giang gì về món bơi lội, song thấy vợ con đói khát, tôi liều nhảy xuống biển bơi sang tàu giặc, xin được 1 gói ni lông đựng đồ ăn. Tôi đeo vô cổ rồi bơi về. Song lượt đi thì còn sức, chứ lượt về thì nửa đường mệt nhoài đến muốn chết chìm. Tuy nhiên như có 1 phép lạ, tôi trôi về tàu mình và bám vào thân tàu mà không leo lên được. Mọi người trên tàu phải lôi tôi lên và vợ con tôi mới có mấy nắm cơm ăn cho hồi sức. Còn tôi thì được nếm mùi xém chết chìm giữa biển khơi!

Thế rồi mấy ngày sau, bỗng nhiên trước mũi tàu của chúng tôi hiện ra một chiếc thuyền hors bord điều khiển bởi một chàng thanh niên lực lưỡng mình trần, miệng không nói năng chi cả. Chàng đứng trên thuyền tay cầm một cuộn dây thừng cỡ lớn, lẳng lặng quăng lên tàu và ra dấu cho chúng tôi cột dây vào tàu để chàng kéo đi. Lũ thuyền nhân chúng tôi đa số kể như sắp chết, líu ríu tuân lệnh và được chàng trai xa lạ cho chiếc hors bord kéo vô bờ Mã Lai. Ai nấy mừng rỡ vì đã thoát hiểm, chen nhau lên cạn, bỏ mặc chàng trai ân nhân thản nhiên đưa chiếc thuyền cứu mạmg quay mũi ra khơi trở lại.Thật là quái lạ nếu không tin là có Ơn Trên sai khiến chàng trai trẻ tuổi xuống trần gian cứu nhân độ thế.

Chúng tôi được đưa về trại tị nạn Kota Baru để chờ các phái đoàn các nước tự do đến phỏng vấn và chọn lựa. Gia đình tôi được Canada và Pháp chấp nhận. Chuyện chúng tôi được Canada chấp thuận thật khác thường. Khi phái đoàn còn ở trong trại, tôi không thể chen vô gặp họ được. Cho đến khi thấy người đại diện Quebec ra ngoài đường sắp sửa mở cửa lên xe, tôi mới liều mình tông đại cửa trại chạy ra níu áo ông ta mà xin định cư tại Quebec. Ngạc nhiên vì trình độ Pháp ngữ của tôi, ông nhận lời song chỉ ghi tên họ tôi trên một mảnh giấy cỏn con. Tuy nhiên tôi vẫn hớn hở trở về trại. May thay Canada đã gọi chúng tôi lên đường trước Pháp chỉ có một ngày.

Chúng tôi được đưa bằng xe bus lên Kuala Lumpur để tụ tập cho nhà nước Canada thuê bao nguyên môt chiếc máy bay đi Canada. Chúng tôi đến phi trường Mirabel một ngày đầu thu lạnh lẽo, cây cối trụi hết lá và đường xá vắng tanh, khiến nhiều người trong bọn tỏ vẻ thất vọng.

Chúng tôi được đưa về tạm trú tại trại lính Longue Pointe để chờ người bảo lãnh đến nhận và xuất trại.. Vì tôi thông thạo Pháp ngữ nên gia đình tôi được hội Richelieu nhận bảo lãnh về Berthierville trong tỉnh bang Quebec sinh sống. Dân Berthelais thật hiền hậu và tử tế khiến tôi tưởng tới người miền Nam mình cũng giản dị và thật thà như thế. Tôi xin được việc làm điện thoại viên trong một nhà dưỡng lão.

Công việc nhàn rỗi song tôi mong muốn trở lại nghề cũ. Tôi cần có nhiều thì giờ để học hành ôn tập sách vở đi thi lấy giấy phép hành nghề y sĩ. Chỉ một năm sau tôi đã thi đậu cả phần Pháp văn và Anh văn. Gia đình tôi dọn về Montreal để tôi đi học thực hành như một y sĩ nội trú tại tổng y viện Montreal General Hospital rồi tôi mới được chính thức nhìn nhận là một bác sỉ thực thụ. Tôi đi nhận việc ở Mount- Sinai Hospital tại St-Agathe-des-Monts.Lương bổng khá cao

song tôi phải xa nhà nên tôi từ chức và về làm cho Hôpital-des-Convalescents ngay tại Montréal. Sau cùng tôi dành toàn thời gian chỉ làm việc tại phòng khám bệnh Minh-Châu đầy khách mà đa số là dân tị nạn VN. Đến năm 74 tuổi tôi mới nghỉ hưu hẳn.

Đấy là những ngày tháng hạnh phúc nhất của gia đìnth tôi, kéo dài trong nhiều năm. Nhà cao cửa rộng, xe hơi sang trọng cho vợ con sung sướng thụ hưởng. Tôi hoạt động trong cộng đồng người Việt, đi thuyết trình về nhiều vấn đề, nhiều lần, nhiều nơi. Chúng tôi cũng tham dự nhiều partys do bạn bè tổ chức, ca ¸hát khiêu vũ tưng bừng… Song tôi bị suy thận nên quá mêt mỏi. Đến năm 74 tuổi phải về hưu. Rồi 1 đêm tôi bỗng bị mê man bất tỉnh phải đưa vào bệnh viện cứu cấp, bác sĩ Goupil chuyên môn về khoa thận học, quyết định xài máy lọc máu Hémodialyse để cứu sống đời tôi. Bữa đó là ngày 20-02-2020, chỉ sau đại dịch Covid-19 có ít ngày.

Kể từ ngày đó tôi mới thể hiện được mìmh đã già nua, phải đi lọc máu cứu mạng mỗi tuần 2 lần, khác với người ta phải đi 3 lần mỗi tuần.

Được như vậy là nhờ bác sĩ Isabelle Chapelaine thấy tôi đã lớn tuổi nên muốn cho tôi có thời gian sống với vợ con bạn bè mấy năm còn lại, trước khi về chầu Trời. Tôi có gắng tự trị, tự lập (autonomie) trong hoạt động hàng ngày (daily living activities hay ADL) cho nhà tôi đỡ cực nhọc giúp đỡ tôi. Để cuộc sống về chiều còn phần nào phẩm chất (qualité de vie) chúng tôi thường tụ tập xoa bài mạt chược. Mạt chược theo quan niệm của tôi, là một môn giải trí giao tế ngoài xã hội (socialisation) và nhất là một phươmg pháp trị liệu tâm thần (psychothérapie) cho tâm trí được thảnh thơi, xa lánh mọi áp lực hay phiền muộn. Tiện đây xin cám ơn các bạn bè đầy thiện chí và nhiệt tình đến chơi mạt chược thường xuyên với vợ chồng tôi, khuyến khích tôi chống chọi với Tử Thần…

Lọc máu không phải là chuyện dễ. Cái máy hémodialyse rất mãnh liệt. Bệnh nhân phải nhẫn nại chịu đựng cái rét lạnh vô tận nó gây ra, cũng như khi lọc xong mệt nhọc quá đỗi, thêm cảnh đi đứng khó khăn xây xẩm, nên phải dùng gậy chống để khỏi té ngã hoặc có người đi kèm dẫn dắt. Tuy nhiên dần dà tôi khắc phục được mọi khó khăn và làm quen với cái máy, nên cảm thấy mình khỏe mạnh như người bình thường. Thực ra tôi phải ăn ít để tránh lên cân và uống ít để chân tay khỏi sưng vù lên. Thế nhưng tôi vẫn ăn thật no bụng, uống nước ừng ực cho đả khát. Một hôm tôi thấy chân tay và mặt mủi sưng húp lên. Sáng hôm sau ngủ dậy tôi mệt đừ và rất khó thở. Nhà tôi muốn gọi xe cứu thương để đưa tôi vào bệnh viện, song tôi không chịu và muốn chết ở nhà. Nàng gọi điện thoại kêu con trai lớn về ngay vì cháu là bác sĩ cấp cứu.

Cháu Kỳ Nam xem xét tình hình và cương quyết đưa tôi đi bệnh viện ngay. Ở đây các bác sĩ chuyên về khoa thận học đồng ý là tôi giữ nước (rétention d’eau) quá nhiều trong cơ thể nên nước tràn ngập đến ngoại biên (surcharge périphérique). Nếu cứ ở nhà, nước sẽ tràn vào trung tâm cơ thể, nhất là 2 lá phổi và gây ra chứng phổi bị sũng nước (oedème aigu du poumon hay OAP.) Chứng nầy rất khó chữa trị và bệnh nhân sẽ ngộp thở mà chết, rất đau khổ. Nhưng con tôi đã đưa kịp bố vô bệnh viện. BS Genest ra lệnh hút bớt nước ra khỏi cơ thể bằng máy lọc máu và chích thuốc lợi tiểu Lasix trực tiếp vô tĩnh mạch. Tôi được cứu sống vì tránh được „chết đuối trên cạn’’.

Tôi không biết mình xém chết lần nầy là bao nhiêu lần, chỉ xin đổi câu „Đời tôi đau khổ đã nhiều” thành „Đời tôi xém chết đã nhiều” và tiếp theo là „Đến khi chết thật, nhẹ nhàng mà đi”.

04-04-2024

Bác sĩ Đặng Ngọc Thuận

8 BÌNH LUẬN

  1. KHà khà khà khà khà
    Hởi Nông Dân Nam Bộ
    Ngưoi là đứa điên khùng
    Tối ngày chỉ chủi rủa

    Hể nói tới Cộng Sản
    Mi nổi điên tức thời
    Bât kể đúng hay sai
    Mi nào có biêt chăng

    Ngụy SAi Gòn của Mi
    Đả tiệt tự bao giò
    củng chính bởi lòng dân
    Chẳng châp nhận điều ác

    Do chính Ngụy tạo nên
    Ruóc Voi giày mã Tổ
    Ruóc giặc làm Tay Sai
    Củng vì thế cho nên

    Lòng dân lại phẩn uất
    Đứng lên làm cách mạng
    Lật đổ NGỤY tham tàn
    Làm một nuóc thóng nhất

    Nam Băc Trung một nhà
    Mi luyến tiếc vàng son
    Một thời Ngụy ban cho
    Để trả công cho Mi

    Vác súng luồn trôn giặc
    Về giét hại dân ta
    Mi phải biét luật đời
    Luật vay trả trả vay

    Tay mi đả vấy máu
    Của dân tình vô tôi
    Giặc đả phải co giò
    Đả cao bay xa chạy

    Sao mi còn luyến tiéc
    Cứ âm ự khóc thầm
    Mong mang chúng trở lai
    Giày Xéo quê huong ta

    Ta thề nguyện môt lòng
    Quyết không hề nhân nhựong
    Truóc kẻ thù Tay Sai
    Truóc kẻ thù Bán Nuóc

    Truoc kẻ thù Hại Dân
    Mi biet chăng hở mi
    Hởi NôNG Dân Nam Bộ
    Khà khà khà khà khà!

  2. Đáng nguyền rủa rẻ khinh!

    Mặc tình chúng cạp đất
    Mặc tình chúng hút cát
    Miền Nam đất tân bồi
    Bị sạt lở tan nát

    Rừng phòng hộ nguyên sinh
    Chúng cứ bán mặc tình
    Ngập từ Nam chí Bắc
    Cúi đầu ta làm thinh

    Đáng nguyền rủa rẻ khinh!

    Nông Dân Nam Bộ

  3. Là kẻ thù chúng Ta!

    Bàn thờ trong mỗi nhà
    Là gì nếu không là
    Bốn ngàn năm văn hiến
    Đạo thờ cúng Ông Bà!

    Đậm đà tình dân tộc
    Là gì nếu không là
    Có cùng chung chủng tộc
    Cùng một mẹ sinh ra!

    Việt cộng vô Tổ Quốc
    Chúng tôn thờ Nga Hoa
    Đồ cái thứ ngu ngốc
    Là kẻ thù chúng Ta!

    Nông Dân Nam Bộ