8 giờ tối ngày 25 tháng Tư, phái đoàn trên hành trình tự do Nam Cali ghé Houston, thành phố có thể được xem là rất hữu tình.
Đây là thành phố có “bốn mùa” rõ rệt – gió, mưa, nóng, lạnh. Mới giữa Xuân, nắng đã ấm (85 độ F) hơn quận Cam Cali nhiều (73 độ F). Dân số trên 2.3 triệu và tăng khá nhanh, khoảng 1.08% kể từ đợt thống kê năm 2020. Houston hiện là thành phố lớn nhất của Texas và đứng thứ tư nước Mỹ. Thành phố có 143 ngàn người Việt, lớn hàng thứ ba tại Mỹ, sau Los Angeles và San Jose.
Chúng tôi lấy căn airbnb nghỉ ngơi sớm để còn tham dự một số sinh hoạt hai ngày kế tiếp. Sáng hôm sau, phái đoàn được ông Chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston và Vùng Phụ Cận, Bác sĩ Nha khoa Chu Văn Cương, giới thiệu về cơ sở sinh hoạt. Cơ sở có diện tích hơn ba mẫu tây (một niềm mơ ước… không thể thực hiện của Nam Cali), lại nằm trên con đường chính đắc địa của khu thương mại người Việt, đang được chuẩn bị trùng tu sửa chữa: ngăn phòng, làm tường, xây sân đậu xe… Ông Cương cho biết mới thay hàng rào bao quanh vì gió lớn tàn phá hàng rào cũ mà đã tốn hơn 50 ngàn đô. Ông nói rằng cộng đồng sẽ có kế hoạch gây quỹ quy mô, như mở chợ đêm hàng tuần. Đúng là thành phố hữu tình, đầy ắp tình người, tình quê hương nên mới có thể huy động đồng hương rộng tay đóng góp để mua được một trung tâm khang trang, rộng đẹp như thế. Chúc mừng Cộng đồng Houston.
Nhà văn Quốc Nam đã sáng tác mỹ danh “Thung Lũng Hoa Vàng” cho San Jose và “Thành Phố Hoa Hồng” cho Portland. Được biết hiện Cộng đồng Houston đang phát động cuộc thi đặt mỹ danh cho thành phố và một bài thơ nói về cộng đồng, đời sống và sự sinh hoạt tại đây. Nhà văn Quốc Nam cho hay ông đã có “mỹ danh” cho Houston rồi, nhưng muốn thi đua với những sáng tác mới xem ai sẽ thắng giải. Người thắng sẽ lãnh ba trăm đô và bài thơ sẽ được phổ nhạc. Độc giả có thể gửi sáng tác (một mỹ danh và một bài thơ) của mình về ban tổ chức: vnch2023@gmail.com. Hạn chót nộp thi là ngày 15 tháng 5. Ban giám khảo sẽ chấm thi và có kết quả vào cuối tháng năm.
Vì cơ sở chưa kiện toàn nên cộng đồng phải mướn sân đậu xe của trường học ngay kế bên để tổ chức tưởng niệm 30/4 vào chiều hôm sau.
Tới thăm cơ sở hoạt động, bác sĩ nha khoa giới thiệu cho chúng tôi “thành phần” chuẩn bị dựng rạp cho buổi lễ tưởng niệm thay vì ban đại diện cộng đồng, gồm các tay thợ “không chuyên môn” như thợ sơn, thợ mộc, thợ… vịn đang hì hục tô vẽ, đục đẽo, đồ đạc ngổn ngang khắp nơi.

Sau đó, chúng tôi được một nhân vật nổi danh trong thập niên 1980 tại quận Cam, ông Trần Văn Bé Tư, mời thăm buổi triển lãm bonsai, tượng khắc, tranh ảnh của nghệ nhân Trần Khả Lập và phu nhân, ca sĩ Bạch Hạc. Nghệ nhân cho biết ông đúc được tượng Đức Trần Hưng Đạo bằng bê tông cốt sắt nặng 1,700 pounds, không thể đem đến cho khách thưởng lãm. Rất nhiều tranh ảnh, bonsai nghệ thuật chúng tôi muốn mua nhưng không thể đem theo cuộc hành trình, đành phải hẹn dịp khác.
Sáng chủ Nhật, phái đoàn tham dự lễ chào quốc kỳ VNCH hàng tuần tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ Houston, do nhóm hậu duệ tổ chức. Trong buổi lễ này, Trung tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, người từng phục vụ tại Ngũ Giác Đài, Phạm Trần Anh Tuấn, phát biểu, “…chúng cháu [hậu duệ VNCH] xin hứa sẽ gìn giữ và bảo vệ lá cờ Vàng vì tuy chúng ta là người Mỹ, nhưng gốc chúng ta là Việt Nam” (phu nhân của ông là Jacklyn Lê Phạm, Phó Chủ tịch Ngoại vụ của Cộng đồng San Antonio). Sau đó, tù nhân lương tâm Nguyễn Michael Phương, người bị cộng sản Việt Nam kết án 12 năm tù vì từ Hoa Kỳ về Việt Nam tranh đấu cho một Việt Nam tự do, được mời phát biểu: “Kính chào quý vị, chúng tôi rất hân hạnh được tham dự lễ chào cờ sáng nay. Tôi từng là cư dân Houston và không xa lạ gì với nhiều người ở đây. Chúng tôi cùng một số cá nhân thuộc nhiều tổ chức khác nhau đang thực hiện “Hành Trình Tự Do”, khởi phát từ California đi Washington DC tham dự Lễ Tưởng niệm 30 tháng 4 và “Ngày Nhân Quyền Cho Việt Nam 11 tháng 5” tại Hoa Thịnh Đốn hàng năm. Chúng tôi đã ghé thăm cộng đồng người Việt tại Phoenix-AZ, San Antonio và đây là địa điểm thứ ba, Houston-TX.
Trưa ngày 27, phái đoàn Nam Cali được Cộng đồng Houston tiếp đãi rất ân cần, mời ăn trưa tại nhà hàng sang trọng trong khu thương mại Việt Nam. Nhân dịp này, Bác sĩ Nha khoa Chu Văn Cương đã giới thiệu ban đại diện gồm toàn những khuôn mặt trẻ, hăng say phục vụ người Việt như Nguyễn Hoàng Quân, Phó Chủ tịch nội vụ kiêm Ủy viên văn hóa; Đại tá Nguyễn Đức Trọng, Phó Chủ tịch ngoại vụ; phu nhân Đại tá là Trần Ann, Thủ quỹ; Trần Khánh Dư, Tổng Thư ký; và Hiền Vy, Ủy viên xã hội.

Một tình cờ thật thú vị trong nhà hàng, Tướng Lương Xuân Việt và phu nhân đang ăn trưa tại bàn kế cận. Bác sĩ Nha khoa Chu Văn Cương, Đại tá Đức Trọng và đông y sĩ Nhất Nguyên liền bước sang chào hỏi thân tình. Những cái bắt tay niềm nở kèm nụ cười tự nhiên, sảng khoái của những người mang chung tâm trạng – những đứa con yêu đều mơ về một đất Mẹ cường thịnh, tự do.
Vào lúc 4 giờ chiều, phái đoàn tham dự Lễ Tưởng niệm 30/4 tại khu Tượng Đài do tập thể quân binh chủng VNCH và cảnh sát tổ chức. Buổi lễ tuy được tổ chức đơn sơ nhưng trang trọng, có sự tham dự của Dân biểu Hubert Võ, ông Chu Văn Cương và một số nhân vật tên tuổi của cộng đồng tham dự. Mọi người thành kính thắp hương trước bàn thờ Tổ Quốc, nguyện cầu cho quê hương sớm được dân chủ hóa.
Năm giờ rưỡi chiều, phái đoàn ghé đến nơi tổ chức Đại lễ Tưởng niệm 50 năm 30/4 do Cộng đồng Houston tổ chức. Dưới cái nắng khá khắc nghiệt và tuy còn sớm, rất nhiều người đã đến tham dự, ngồi gần kín số ghế ban tổ chức xắp ra.
Trước bàn thờ Tổ Quốc uy nghiêm, hai bên treo hai tấm liễn, đọc được như sau: “Tổ Quốc Sơn Hà Non Nước Việt”, “Giang San Gấm Vóc Gốc Lạc Hồng” (CVC).
Buổi Lễ được tổ chức đúng 6 giờ chiều. Các đoàn thể lần lượt rước hàng loạt quốc kỳ Việt Nam và Hoa Kỳ tiến tới trước sân khấu. Lễ Chào quốc kỳ Mỹ-Việt trang nghiêm và cảm động. Hai lá cờ được chiếu trên màn ảnh vĩ đại thay cho hình ảnh sơn phết trên tấm phông cuối sân khấu như thường lệ. Ban tổ chức cho bắn 21 phát súng truy điệu các chiến sĩ đã hy sinh càng làm không khí buổi lễ thêm uy nghiêm và khiến mọi người chăm chú yên lặng theo dõi.

Các viên chức địa phương Việt Mỹ và đại diện cộng đồng được lần lượt mời phát biểu. Bảy lá cờ thuộc bảy quốc gia gửi lính tham chiến tại các chiến trường miền Nam trước 1975 được đưa tới dựng ngay ngắn trước sân khấu, bao gồm Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Gia Nã Đại, Nam Hàn, Phi Luật Tân và Thái Lan. Ban tổ chức tuyên đọc số lính từng nước tham gia, số tử sĩ và thương binh, đồng thời có lời tạ ơn chính phủ và nhân dân bảy quốc gia đã giúp miền Nam đứng vững trước làn sóng đỏ trong 20 năm. Đáp lại, đại diện cộng đồng Phi cũng lên sân khấu cám ơn đồng bào Việt hải ngoại đã rộng tay giúp đỡ khi cơn bão Bopha quét qua đảo Mindanao khiến hơn hai ngàn người chết và mất tích. Điều này cho thấy cách cư xử rất nhân văn, đầy tình người giữa hai dân tộc khác nhau. Trong khi đó, cộng sản đã áp lực chính phủ Nam Dương và Phi Luật Tân đục bỏ hai tấm bia của người Việt hải ngoại tạ ơn Cao Ủy tị nạn LHQ, chính phủ và nhân dân hai nước đã rộng tay cứu vớt và làm nơi tạm trú cho làn sóng tị nạn Việt Nam sau 1975. Hai tấm bia được đặt tại:
- Palawan, Phi Luật Tân, nơi từng có trại tị nạn lớn cho người Việt vượt biên sau năm 1975.
- Galang, Nam Dương, một hòn đảo khác từng là nơi đặt trại tị nạn lớn dành cho người Việt.
Cả hai tấm bia này đều đã bị chính quyền sở tại cho đục bỏ trong các năm sau đó — tấm bia ở Galang bị phá hủy năm 2005, còn bia ở Palawan bị đục bỏ năm 2015.
Chuyến xe “Hành Trình Tự Do” được ban tổ chức ghi nhận và vị đại diện cũng được mời lên phát biểu cảm tưởng.
Chương trình kéo dài tới 9:30. Chúng tôi phải từ giã sớm để kịp ghé French Quarter và viếng thăm cộng đồng Atlanta, Georgia trước khi tiến về Washington DC.

Phái đoàn của Hành trình Tự Do ghé thăm Cộng đồng Atlanta lúc 7:45 chiều mà trời còn sáng trưng, tại Công viên Brook Run thuộc thành phố Dunwoody, nơi đặt Đài Tưởng niệm với hai bức tượng chiến sĩ Việt Mỹ đứng cạnh nhau cùng hai bức tường đá đen khắc tên các chiến sĩ đã hy sinh, khánh thành vào ngày 5 tháng 10 năm 2024 do Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Georgia và Hội Cựu Chiến Binh Việt-Mỹ Georgia xây dựng sau hai năm tích cực vận động.
Cũng chưa quen mà đã có màn chào hỏi chân tình, bàn tán việc kết hợp làm việc chung vì đất nước thân yêu. Phải cảm phục các khuôn mặt trẻ trung tự nguyện dấn thân làm việc vì cộng đồng Atlanta. Chúng tôi còn thấy ông John Butler, một cựu quân nhân Hoa Kỳ được thuê mướn để giúp xây dựng Đài Tưởng niệm cũng có mặt với anh em. Được biết, chương trình tưởng niệm 30 tháng Tư năm nay do ba nhóm cùng tổ chức: Ủy Ban Xây Dựng Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Việt Mỹ GA (Vietnam War Memorial of GA), Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia GA (Vietnamese American Community of GA), và Hội Doanh Nhân Cựu Chiến Binh Chiến Tranh Việt Nam Atlanta (AVVAB-Atlanta Vietnam Veterans Business Association Atlanta).
Phái đoàn phải tạm chia tay để các anh chị kịp chuẩn bị tới 11 giờ khuya cho buổi lễ hôm sau.
Tạm biệt Atlanta. Tạm biệt những tấm lòng khao khát yêu thương, khao khát được cùng anh em nắm tay nhau ôm trọn quê hương dấu yêu vào lòng.
Tạ Dzu
svbqhb
xp9gid
Mỗi năm hoa daffodil đều rộ nở vào Tháng Tư như những lá cờ vàng.
Rồi tulips loại nở sớm Kaufmanniana and Greigii cũng bắt đầu nở hoa cuối tháng tư.
“Ngày Hành Trình Tự Do” (Journey to Freedom Day) ở Canada được tổ chức vào ngày 30 tháng 4 hàng năm, để kỷ niệm những người tị nạn Việt Nam đã đến Canada sau sự kiện Sài Gòn thất thủ năm 1975. Ngày này cũng là để tôn vinh sự đón tiếp của người Canada đối với những người tị nạn và những đóng góp của họ cho đất nước.
April 30 marks Journey to Freedom Day in Canada. This day commemorates the lives lost and suffering endured by the estimated 800,000 to one million people who fled Vietnam after 1975. It also celebrates Canada’s humanitarian response to the refugee crisis.
Ngày 30 tháng 4 đánh dấu hành trình đến Ngày Tự Do ở Canada. Ngày này tưởng nhớ đến những sinh mạng đã mất và nỗi đau khổ mà khoảng 800.000 đến một triệu người phải chịu đựng khi chạy trốn khỏi Việt Nam sau năm 1975. Ngày này cũng tôn vinh phản ứng nhân đạo của Canada đối với cuộc khủng hoảng người tị nạn.
Daffodil vẫy chào trong gió như những lá cờ vàng for Memorial of Journey to Freedom Day.
30 Tháng Tư: Ngày Hành trình đến Tự do thành đạo luật tháng 4 năm 2015 của Canada cùng Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải
Bạn chưa bao giờ quay lại Việt Nam.
KHÔNG.
Tạ Dzu Hành Trình Tự Do 50 năm 30 tháng Tư – 24/4 tới 03/5 2025
Đúng là Cuộc Tư Do Đi Qua Lại thăm viếng các nơi, từ 24 tháng 4, phái đoàn Nam Cali đã làm lễ xuất phát Hành Trình tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, từ quận Cam trực chỉ Washington DC tham dự Lễ Tưởng niệm 50 năm 30/4 và ngày Nhân Quyền cho Việt Nam. Qua Phoenix-Arizona, San Antonio và Houston-Texas, ghé Louisiana French Quarter, Atlanta-Georgia, và Virginia.
Cựu Thương Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải:
JOURNEY TO FREEDOM DAY ACT Office of the Honourable Senator Thanh Hai Ngo
As Canada’s first senator originally from Vietnam, I was honoured to introduce Bill S-219 on April 30, 2014, which passed as the Journey to Freedom Day Act on April 23, 2015 in the statutes of Canada under Chapter 14. The Act was enacted in time for the 40th anniversary of the fall of Saigon, the beginning of the boat people exodus where Vietnamese-Canadians have gathered on April 30 every year since to remember a new beginning in their resettlement and to thank Canada for their new home. As a result, April 30 will now nationally commemorate the Vietnamese boat people’s exodus, and remember Canada’s humanitarian tradition of welcoming refugees during and after the Vietnam War.
Ngô Thanh Hải: the passing of Journey to Freedom Day Act in April 2015. Kỷ niệm 40 năm Saigon sụp đổ
30 Tháng Tư: Ngày Hành trình đến Tự do thành đạo luật tháng 4 năm 2015 của Canada.
“Nó ghi nhận ngày người tị nạn Việt Nam bắt đầu đến Canada sau khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Để ghi nhận người dân Canada đã chào đón chúng tôi bằng vòng tay rộng mở và chấp nhận chúng tôi — vào thời điểm đó trong khoảng thời gian một năm, bạn có khoảng 60.000 người Việt Nam đến đây. Thật là nhiều.”
Từ Canada: Xin ghi nhận này 30 Tháng Tư như Senator Ngô Thanh Hải 2012–2022, đã mang 30 Tháng Tư Journey to Freedom Day Act in April 2015.
Thượng nghị sĩ Ngo trả lời câu hỏi của một sinh viên đang tham quan Phòng Thượng viện tại Tòa nhà Thượng viện Canada .
From https: //sencanada. ca/en/sencaplus/people/the-legacy-we-leave-behind-senator-ngo-retires-from-the-senate/ SenCAplus Magazine ‘The legacy we leave behind’: Senator Ngo retires from the Senate
…
Hỏi: Some of that work led to the passing of your Journey to Freedom Day Act in April 2015.
Đáp: It recognizes the day Vietnamese refugees began to arrive in Canada after the fall of Saigon on April 30, 1975. To recognize the Canadian people who welcomed us with open arms and accepted us — at that time in the period of one year you had about 60,000 Vietnamese arrive here. That’s a lot.
Đáp: We are thankful for their warm welcome to us. And that’s why now, the Vietnamese community, we are giving back. We are sponsoring the Syrians, the Afghans… We give back. We appreciate what Canadians did for us; it’s our turn to help.
You’ve never been back to Vietnam.
No.
…
Một số công việc đó đã dẫn đến việc thông qua Đạo luật Ngày Hành trình đến Tự do vào tháng 4 năm 2015.
Nó ghi nhận ngày người tị nạn Việt Nam bắt đầu đến Canada sau khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Để ghi nhận người dân Canada đã chào đón chúng tôi bằng vòng tay rộng mở và chấp nhận chúng tôi — vào thời điểm đó trong khoảng thời gian một năm, bạn có khoảng 60.000 người Việt Nam đến đây. Thật là nhiều.
Chúng tôi biết ơn sự chào đón nồng nhiệt của họ dành cho chúng tôi. Và đó là lý do tại sao bây giờ, cộng đồng người Việt Nam, chúng tôi đang đền đáp. Chúng tôi đang tài trợ cho người Syria, người Afghanistan… Chúng tôi đền đáp. Chúng tôi trân trọng những gì người Canada đã làm cho chúng tôi; đến lượt chúng tôi giúp đỡ.
Bạn chưa bao giờ quay lại Việt Nam.
KHÔNG.
Thanh Hai Ngo is a retired Canadian politician who served as a senator from Ontario between 2012 and 2022. A member of the Conservative Party, Ngo was appointed to the Senate on the advice of Prime Minister Stephen Harper. He is the first senator of Vietnamese descent. Wikipedia
Born: January 3, 1947 (age 78 years), South Vietnam
Previous office: Canadian Senator (2012–2022)
Party: Conservative Party of Canada
Education: University of Ottawa, Paris-Sorbonne University, University of Paris
In Memorial of 50 years of Journey to Freedom Day
Thông minh nhứt nam tử làm thinh?
Hết Tây Tàu tự chúng ký kết
Chúng tròng đầu siết cổ chúng ta
Bây giờ thì Mỹ Hoa Tariffts”
Một lần nữa chúng vẫn làm cha
Học cao hiểu rộng để dẩn dắt
Đâu rồi giới khoa bảng trí thức
Thông minh nhứt nam tử làm thinh?
“Khoa bảng trí thức như cụt c..”!
Nông Dân Nam Bộ
Cả một dân tộc coi như không!
Trong nước thì tàu lạ người lạ
Lãnh đạo thì ăn bò dát vàng
Xuất khẩu lao động khắp thiên hạ
Quê hương càng ngày càng điêu tàn
Hải ngoại thì cuồng Trump “phong sứ”
Youtube facebook toàn xàm xí
Cùng ngày trong nước đốt pháo bông
Bên ngoài buồn rầu ngày mất nước
Có dân tộc nào như ta không?
Năm mươi tư chia đôi đất nước
Tây Tàu chúng quqyết định là xong
Năm bảy ba kẻ thù chúng rước
Tự hào ngạo nghễ cái viễn vông
Viễn ảnh trước mặt họa diệt vong
Năm mươi năm mang thân viễn xứ
Cả một dân tộc coi như không!
Nông Dân Nam Bộ
Nguyên do nào khiến người Việt nam được Mỹ chấp nhận cho định cư ở Mỹ ?
Stephen B. Young – tiến sĩ luật tốt nghiệp từ đại học Harvard; từng phục vụ ở Việt nam 1968-71 trong chương trình CORDS (Civil Operations and Rural Development Support ) thuật lại:
Tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger đều không có kế hoạch cứu giúp nhân đạo người dân Việt nam nào hết cả. Thái độ của họ đối với người dân Nam Việt nam là bỏ rơi luôn. Nhưng cuối cùng thì Hoa Kỳ đã chịu đón tiếp một số người Việt nam bỏ xứ ra đi tìm tự do.
Sở dĩ có cuộc đón tiếp đó là do ý chí nỗ lực của một nhóm anh em trẻ , trong đó có tôi, Stephen Young.
Ngày 31/3/75, Stephen Young thuyết phục mấy anh bạn đang làm việc cho Bộ Ngoại Giao và Tòa Bạch Ốc để đề nghị họ tổ chức một chương trình đón người Việt di tản. Parker Borg – lúc đó làm phụ tá cho Ngoại Trưởng Kissenger , Parker Borg trả lời: “Cả Kissinger và TT Ford bây giờ không muốn để ý một chút nào về Việt nam nữa. Họ chỉ muốn rửa tay, quên đi càng sớm càng tốt cái chiến tranh đầu tiên mà Hoa Kỳ không thắng được. Họ không muốn có ý kiến nào về một chương trình đón người Việt di tản và cho định cư ở Hoa Kỳ”. Lionel Rosenblatt (vừa thay Parker Borg), Ken Quinn, Al Adams, Jean Sauvageot, và rồi cuối cùng đạt được thắng lợi. Parker Borg được bổ nhiệm làm chủ tịch chương trình di cư, Lionel Rosenblatt vận động với phó chủ tịch Thượng Viện là Ted Kennedy đồng ý cho số người Việt vào Hoa Kỳ bằng với số lượng người Cuba được phép vào Hoa Kỳ năm 1965, tức là 150,000 người.
Cuộc di tản bắt đầu từ ngày 4/4/1975 với chiến dịch Babylift chủ yếu là một cuộc không vận quy mô để đưa trẻ con mồ cô rời khỏi Việt nam, trong số có con lai của quân nhân Mỹ. Tính đến chuyến bay cuối cùng ngày 27 tháng 4, chiến dịch Babylift đã di tản được 2547 trẻ con trong số có 1945 đến Hoa Kỳ và 602 đến các quốc gia khác (Canada, Úc, Âu Châu).
Cho đến ngày 25/4, đại sứ Graham Martin ở Việt nam mới nhận được lịnh cho phép ông di tản 50,000 người Việt. Điều trần trước Quốc Hội năm 1976, ông nói: On April 25, the Embassy finally received parole authority for additional categories of relatives and up to 50,000 high-risk Vietnamese. This was 4 days before the final departure from Vietnam (Testimony, trang.545).
50,000 người Việt có mức rủi ro cao độ là ai? Chỉ tiêu theo Bộ Ngoại giao Mỹ là:
– thân nhân của công dân Mỹ
– những người làm việc cho Mỹ và thân nhân những người nầy
– nhân viên cao cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Rõ ràng là trong số 50000 người nầy không có người dân thường Việt nam.
Khi được cho phép di tản 50,000 người Việt như trên, ông đại sứ Martin cho là ít quá nên ông kiếm cách gia tăng bằng cách ông giải thích rộng rãi là 50,000 “chủ gia đình “, nhờ vậy mà số người Việt di tản lên lên đến 130,000 người.
Ngày 23 tháng 5, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành sắc luật Indochina Migration and Refugee Assistance Act đồng ý cho 200,000 người Việt và người Miên (trong đó có 130,000 người Việt) được nhập cảnh vào Hoa Kỳ với qui chế “tạm dung” (parole) và cho phép tổng thống Gerald Ford sử dụng ngân khoản 455 triệu Mỹ kim để tổ chức cuộc di tản và cứu trợ người tỵ nạn.
Năm 1976 , tu chính án thêm cho người Lào , và năm 1977 cho phép những người có qui chế “tạm dung” (parole) trở thành công dân thường trú. Đạo luật nầy cung cấp một khung pháp lý cho sự hiện diện của người Việt tỵ nạn và mở đầu cho những cuộc nhập cư sau đó.
Năm 2000, có mặt tại Sài Gòn dịp kỷ niệm 25 năm ngày 30/4, Thượng nghị sĩ John McCain đã phát biểu với báo chí: “Tôi cho rằng những kẻ xấu đã thắng. Tôi nghĩ họ đã đánh mất hàng triệu người tài giỏi ra đi bằng thuyền, hàng ngàn người bị xử tử và hàng trăm ngàn người phải đi học tập cải tạo,…” theo CBS News ngày 25/4/2000.
Đã có những người bị trù dập vì làm điều đó, như Trung tướng Trần Độ, như nhà văn Dương Thu Hương, hay đã bị bỏ tù như giáo sư Đoàn Viết Hoạt, luật sư Đoàn Thanh Liêm, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Trần Khải Thanh Thủy, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Hồng Sơn, như luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhân, luật sư Lê Quốc Quân và nhiều người Việt trong nước còn đang bị giam tù là Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Sơn Lộ, Huy Đức Trương Huy San và hàng trăm tù nhân chính trị chỉ vì có quan điểm khác với nhà nước.
năm 2019, Đại sứ Daniel Kritenbrink cùng nhân viên đại sứ quán Mỹ đã đến thắp hương tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn ở Quảng Trị. Ở phía ngược lại, chưa có quan chức nào của Hà Nội đến đặt vòng hoa tại Bức Tường Đá Đen ở thủ đô Washington, nơi khắc tên các chiến binh Mỹ hy sinh tại Việt Nam.
Một bài viết năm 2017 trên The New York Times với nhan đề Why Thailand Takes Pride in the Vietnam War (Tạm dịch: Tại sao Thái Lan tự hào về Chiến tranh Việt Nam) chỉ ra rằng trong suốt cuộc chiến tranh, Hoa Kỳ đã đổ 1,1 tỷ đô la viện trợ kinh tế và quân sự vào Thái Lan, trong khi USAID rót thêm 590 triệu đô la nữa.
Cả hai khoản viện trợ này đều góp phần thúc đẩy kinh tế Thái Lan và gián tiếp chi trả, thậm chí còn dư, cho chi phí tham gia của Thái Lan vào cuộc chiến.
Chiến tranh Việt Nam mang đến những cơ hội lớn cho Hàn Quốc.
Một trong những tác động trực tiếp và đáng kể nhất của Chiến tranh Việt Nam đối với kinh tế Hàn Quốc là sự tham gia của quân đội nước này vào cuộc chiến.
Từ năm 1964 đến năm 1973, Hàn Quốc đã điều hơn 50.000 binh sĩ sang Việt Nam, trở thành lực lượng nước ngoài lớn thứ hai sau Mỹ.
Dòng vốn ngoại tệ từ các hoạt động quân này đã giúp cải thiện cán cân thanh toán của Hàn Quốc và cung cấp nguồn vốn cần thiết cho các nỗ lực công nghiệp hóa trong nước.
Charles M. Hernández, tác giả cuốn Lính đánh thuê trong Chiến tranh Việt Nam: Washington thuê lính Hàn Quốc, xuất bản năm 2020, chỉ ra doanh thu từ cuộc xung đột chiếm 40% tổng thu nhập ngoại hối của Hàn Quốc, và từ năm 1965 đến năm 1972, nước này đã kiếm được 1 tỷ đô la Mỹ và nhận được 2,7 tỷ đô la Mỹ dưới dạng các khoản vay nước ngoài cũng như các những lợi ích khác.
Ước tính lợi nhuận tài chính từ Chiến tranh Việt Nam chiếm 7-8% GDP của Hàn Quốc trong giai đoạn 1966-1969. GDP của Hàn Quốc đã tăng gấp bốn lần từ 2,7 tỷ USD năm 1963 lên 10,73 tỷ USD năm 1973, theo nghiên cứu đăng tải năm 2013 từ Viện Nghiên cứu Chính sách Asan (Hàn Quốc).
Đề Đốc Lawrence Chambers, người từng chỉ huy chiến dịch Operation Frequent Wind khi ra tay cứu 3,000 người Việt Nam vào những ngày cuối của Cuộc chiến Việt Nam, ghé thăm nhật báo Người Việt, hôm thứ Hai, 28 tháng Tư.
Ngày 29 tháng Tư, 1975, Đề Đốc Chambers là người chỉ huy chiếc hàng không mẫu hạm USS Midway trong chiến dịch cứu hàng ngàn người Việt Nam cho di tản ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Điều mà ông được mọi người nhớ nhất là ông đã quyết định cho đẩy xuống biển hàng chục chiếc trực thăng UH-1 trên hàng không mẫu hạm để có chỗ cho chiếc máy bay của Thiếu tá Lý Bửng chở vợ và năm người con đáp xuống USS Midway an toàn, mặc dù lúc đó ông nghĩ rằng ông có thể bị đưa ra xử tại tòa án quân sự vì hành động cứu người này.
Khi được hỏi, sau 50 năm, nếu gặp hoàn cảnh tương tự như vậy, thì liệu ông có làm hay không, vị Đề đốc nay đã 96 tuổi đáp: “Vẫn làm chứ. Tôi không biết có bao nhiêu chiếc trực thăng đã bị đẩy xuống Biển Đông, nếu tính ở thời điểm đó chắc cũng phải cả trăm triệu đô la. Nhưng lúc đó, tôi không có lựa chọn nào khác. Vả lại, cứu một mạng người không thể tính ra thiệt hại bao nhiêu tiền”.
“Lúc đó, tình hình thật là hỗn loạn. Có tổng cộng 25 chiếc tàu lớn nhỏ tham gia chiến dịch Operation Frequent Wind. Tôi phải hành động nhanh thôi, vì lúc đó máy bay của Thiếu tá Bửng sắp hết xăng rồi”, Đề Đốc Chambers nói thêm.
Đề Đốc Lawrence Chambers là người gốc châu Phi thứ nhì tốt nghiệp Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ, nhưng là phi công gốc châu Phi đầu tiên tốt nghiệp Học viện Quân sự danh giá này.
Ông cũng là người gốc châu Phi đầu tiên đứng chỉ huy một chiếc hàng không mẫu hạm của Mỹ.
Sau USS Midway (CV-41) ông còn chỉ huy chiếc hàng không mẫu hạm USS Coral Sea (CV-43) và nhóm tàu chiến “Carrier Strike Group Three” trong vụ giải cứu các con tin ở Iran.
Ông hiện cư ngụ ở St. Petersburg, Florida, và cho biết đã thường xuyên gặp cựu Thiếu tá Lý Bửng, người đang sống ở Orlando, cùng tiểu bang với ông.
Riêng chiệc hàng không mẫu hạm USS Midway giờ trở thành một viện bảo tàng, hàng năm, vào cuối tháng Tư, thường tổ chức các buổi hội ngộ của những người tỵ nạn Việt Nam với các thủy thủ Mỹ, ân nhân của họ năm xưa.
Biết đến bao giờ ta hết nợ?
Xuất khẩu lao động sang Nhật Bản
Sang Đài Loan Đại Hàn Tây Âu
Hầu có ngoại tệ để nhập cảng
Thuốc men phân bón lẫn xăng dầu
Với chánh sách bốc đồng “Tariffs”
Những nước nghèo chắc chắn chết trước
Xem ra nạn nhân chính nước ta
Cả hai Mỹ Hoa giết ta chết
Nếu người Việt vẫn mang tư duy
Vẫn mặc cảm nhược tiểu tự ti
Vẫn với nền văn hóa khép kín
Không lệ thuộc Tàu thì Hoa Kỳ
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm bị Tây đô hộ
Huynh đệ tương tàn ta giết nhau
Biết đến bao giờ ta hết nợ?
Nông Dân Nam Bộ
Thế hệ trẻ thứ hai thứ ba
Hấp thụ nền văn hóa Tây Âu
Thế hệ già chúng ta chết hết
Họa hoằn nước ta mới may ra!
Mún hỏi tác giả Tạ Zoo, một người rất năng nổ văng miểng tiên chiền cho gòa zải, gòa hợp .
Những bủi lễ lạc đi wa chỉ toàn thấy cờ vàng đứng cô đơn, hổng có lá cờ đỏ sao vàng đứng cạnh bên, tác giả có thấy bùn, & biến đau thương thành hành động để quyết tâm hơn, thực hiện giấc mơ đem cờ đỏ wa đây đứng chung với cờ vàng hông ?
Nếu có thì xin chúc tác giả có nghị lực nói láo nhiều hơn nữa . So với Nguyễn Ngọc Giao, hiện giờ tác giả chỉ đứng ngang cc ông NNG về sự kiên định trong láo khoét, tác giả cần cố gắng (nhìu) hơn nữa . At least ya gotta be half as bad
From: NGUYỄN VÂN TÙNG
Date: Sat, Apr 26, 2025 at 7:37 AM
Subject: TƯỞNG NIỆM NGƯỜI ANH HÙNG ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN
To: TONY NGUYEN
TƯỞNG NIỆM NGƯỜI ANH HÙNG ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN
Câu chuyện về những người lính đã từng giang vai gánh vác sơn hà
Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa
Chiếc máy bay DC.6 đáp nhẹ xuống phi trường Liên Khương của xứ Anh Đào, bao phủ bởi muôn hoa, muôn màu, muôn sắc. Tôi uể oải cởi dây nịt an toàn, lấy vội cái xách tay, nối gót theo hành khách đang di chuyển dần ra phía cửa phi cơ. Cái lạnh của miền Cao nguyên đã bám chặt lấy tôi. Khoác vội chiếc áo Field Jacket màu ngụy trang Binh chủng, tôi nhập theo đoàn người chờ lấy hành lý.
Trở lại Đà lạt lần này cái gì cũng thấy ngỡ ngàng sau gần 10 năm xa cách. Nhìn dãy đồi xanh tươi trước mặt, tôi chợt nhớ đến ngọn đồi Phù cũ, Bình định. Nơi tôi đã để lại máu mình cho cây cỏ thêm xanh bởi một trái pháo 130 ly của Việt Cộng. Sau một ngày và hai đêm mê man, khi tỉnh lại tôi có cảm tưởng như đang lênh đênh trên biển cả. Tôi lắc đầu thật mạnh để biết rằng mình đang tỉnh. Người y sĩ Hoa Kỳ cấp bậc Trung tá đang nhìn tôi cười và vỗ nhẹ vào tay tôi, ông hỏi:
– Anh thấy trong người có khỏe không?
– Tôi vẫn khỏe, cám ơn. Xin lỗi ông tôi đang ở đâu?
Vẫn nụ cười không tắt trên môi, ông vui vẻ trả lời:
– Đại úy đang nằm trên chiếc tàu Bệnh viện của Đệ thất Hạm đội. Tôi mừng được thấy Đại úy tỉnh lại, đã 2 ngày nay ông thiếp đi vì mất nhiều máu.
Suốt một tháng lênh đênh ngoài khơi bờ biển miền Trung, từ Qui Nhơn đến Đà Nẵng. Cứ mỗi chiều cuối tuần tôi được John vị Y sĩ trưởng của bệnh viện mời xuống chiếc cầu nổi cập sát con tàu để bán giải khát. Mỗi người chỉ mua được một lon bia, uống tại chỗ không được mang lên tàu, còn nước ngọt thì uống tự do. Nhìn ông mặc bộ đồ ngụy trang tôi vừa tặng trông thật buồn cười, quần không thể nào cài cúc được vì bụng quá lớn. Ông nói:
– Không sao đâu Đại úy. Mặc áo bỏ ra ngoài chẳng ai thấy đâu. Cái gì ẩn giấu có xấu cũng thành đẹp, không ai hiểu được sự thật bên trong nó như thế nào!
Sau 2 tuần ngắn ngủi, chúng tôi đã thân nhau hơn. Chiều chiều khi hoàng hôn trôi nhạt nhòa trên sóng biển, tôi và John lên boong tàu nhìn đàn hải âu bay lượn cho đến lúc mặt trời chìm sâu dưới mặt biển. Chúng tôi mới trở về phòng ăn với những món ăn thịnh soạn do đầu bếp người Phi Luật Tân nấu.
Qua tuần lể thứ ba, tôi mập hẳn lên và nước da trở nên hồng hào, không còn sạm nắng như khi nằm trên ngọn đồi Phù cũ đón những cơn gió lửa. John mang ảnh vợ con ra khoe với tôi, vợ John xinh như diễn viên màn bạc. Nàng cũng là bác sĩ và đang sống tại San Diego trong một biệt thự xinh xắn nằm sát biển. Nhìn những vì sao mọc sớm trên bầu trời, tôi hướng về John đề nghị:
– John à, ngày mai anh có thể cho tôi xuất viện được không?
John bị hỏi bất ngờ, anh ta vỗ vai tôi thân mật nói:
– Tôi đang định bàn với anh chuyện này, tôi đề nghị cấp trên giữ anh ở lại đây khoảng 3 tháng cho sức khỏe của anh thật bình phục. Như anh đã biết, chúng tôi gặp rất nhiều trở ngại khi thương binh được đưa đến chữa trị đa số không nói được tiếng Anh, chúng tôi lại không có người thông dịch. Hay là anh cứ tạm ở đây cho đến khi chúng tôi có thông dịch viên rồi hãy xuất viện. Thay vì trả lời tôi hỏi John:
– Anh có nhớ vợ con anh không?
– Ơ sao anh lại hỏi thế? Tôi đến Việt Nam mới có 6 tháng mà tôi tưởng như đã xa vợ con cả 6 thế kỷ rồi. Ngày nào tôi cũng viết thư cho nàng.
Chụp lấy cơ hội tôi tấn công John:
– Vậy anh biết tôi xa vợ con tôi bao lâu rồi không? Hai năm kể từ ngày cưới, tôi chỉ về thăm nàng một lần, khi sanh đứa con trai đầu lòng. Vợ tôi dạy học, lúc này đang nghỉ hè, rất tiện cho tôi được về thăm nàng, để được nàng săn sóc… Hậu cứ của đơn vị tôi lại đóng gần bệnh viện Đại hàn, mỗi ngày tôi sẽ đến nhờ họ chăm sóc vết thương.
John nhìn sâu vào mắt tôi thân mật nói:
– Tôi là Y sĩ của một đơn vị tác chiến trước khi về làm việc tại con tàu này, tôi rất thông cảm với anh. Các anh đã chiến đấu vô cùng anh dũng để giữ lấy tiền đồn của Thế giới Tự do. Thôi được ngày mai tôi sẽ cho anh xuất viện, trực thăng sẽ đưa anh vào đất liền. Khi về gặp gia đình nhớ viết thư cho tôi và tả tỉ mỉ hạnh phúc anh bắt gặp trong những ngày hè… Tôi chắc là tuyệt vời đối với anh sau hai năm lăn lộn trên tuyến lửa nơi miền địa đầu giới tuyến.
Đang nghĩ ngợi miên man, tôi bỗng nghe có tiếng người gọi tên mình.
– Hòa ơi!… Hòa.
Tôi quay lại và ngạc nhiên khi thấy Hồ Ngọc Cẩn, người bạn thân cùng học ở Trường Thiếu Sinh Quân và cùng theo học một khóa Sĩ quan với tôi.
– Bạn trôi dạt từ vùng U Minh lên Đà Lạt hưởng tuần trăng mật phải không?
Cẩn vỗ nhẹ vào chiếc cặp Samsonite và nói:
– Văn ôn võ luyện mà bạn.
Tôi mừng quá run run hỏi:
– Chỉ huy Tham mưu?
Cẩn gật nhẹ, nắm chặt tay Cẩn tôi reo lên như một đứa trẻ:
– Ồ sung sướng quá, mình cũng vậy. Vừa bị thương đang nghỉ dưỡng thương thì có lệnh gởi đi học, thôi thì lên Đà Lạt nghỉ mát một thời gian, để chiến trường lại cho người khác ôm ấp.
Đến Trường Chỉ huy Tham Mưu chúng tôi nhận phòng, hai đứa chỉ ở cách nhau một bức tường. Sau khi tắm rửa, tôi và Cẩn ra phố Đà Lạt để tìm người quen và “rửa mắt”.
Đà Lạt có rất nhiều loài hoa, kể cả loại hoa biết nói, biết hát, biết cười và biết khóc! Sau chai Courvoisier, gout của Cẩn, chúng tôi thấy ấm lòng, cái lạnh đã rời xa…
Thả bộ quanh chợ Hòa bình, xuống con dốc Phan Đình Phùng tìm nhà do một người bạn cùng Binh chủng giới thiệu. Tôi sợ lộn số, phải xem lại địa chỉ rồi mới dám bấm chuông vì ngôi biệt thự lộng lẫy quá. Tọa lạc trên một ngọn đồi riêng biệt, bao phủ bởi một rừng hoa! Tiếng chuông vừa dứt, một người đàn bà Trung hoa nhanh nhẹn ra mở cửa và hỏi chúng tôi:
– Xin lỗi, các ông muốn tìm ai?
– Chúng tôi muốn gặp ông Bảo Vinh.
Nghe nói đúng tên chủ mình, người đàn bà cúi thấp đầu nói:
– Xin mời hai ông vào chờ tôi thưa lại.
Tôi và Cẩn được mời vào phòng khách, tôi có cảm tưởng như mình đang xuất ngoại vì sự sang trọng của ngôi biệt thự. Điều này chứng tỏ chủ nhân phải là một tay “tiền vô như nước”. Trước mặt chúng tôi giờ đây là một cô gái thướt tha đài các trong tấm áo xanh huyền ảo. Nàng chào chúng tôi và lên tiếng trước:
– Xin lỗi hai ông, ba tôi vừa đi dự tiệc, có lẽ đến khuya mới về. Tôi tên là Thu Hương, con gái lớn của gia đình. Ba tôi có nói trước là sẽ có hai người bạn ở Sài gòn lên trọ học. Chúng tôi đã sữa soạn chỗ ở cho hai ông và xin mời hai ông vào nghĩ…
Cẩn nhìn tôi nói khẽ:
– Thôi bọn mình về trường, cuối tuần sẽ trở lại.
Chúng tôi từ giã nàng và không quên viết vài hàng để lại cho ông Bảo Vinh. Ra đến đường Cẩn hỏi tôi:
– Này Hòa ơi! Mình phải gọi Bảo Vinh bằng gì, anh hay chú?
Tôi cười:
– Tùy bạn và tùy hoàn cảnh của ngày mai. Que sera, sera..
Trưa thứ bảy, chúng tôi chuẩn bị xuống phòng ăn nhà trường thì được loa phóng thanh báo có người nhà đến thăm và đang đợi ở phòng Tiếp tân. Tôi hỏi Cẩn:
– Ai thăm chúng mình thế Cẩn?
– Chỉ có trời biết, lên đây mới 4 ngày tôi có quen ai đâu!
Rồi Cẩn vỗ mạnh đùi mình ra điều thích thú nói:
– Tôi đóan ra rồi. Gia đình cô Thu Hương.
Chiếc Mercedes bóng lộn đậu trước nhà khách, chúng tôi bước vào trước bao nhiêu cặp mắt đang nhìn mình, có lẽ họ nghĩ bọn tôi ít lắm cũng từ “quan Quận” trở lên. Lần đầu tiên gặp Bảo Vinh, tôi nghĩ đây là một tay thương gia có tầm vóc của Chợ Lớn. Hiện ông đang thầu rau tươi cho Quân đội đồng minh từ DMZ (khu phi quân sự) đến Quân đoàn 4.
Quay sang con gái, Bảo Vinh giới thiệu:
– Đây là Thu Hương, con gái lớn của tôi. Đêm qua tôi được điện thoại của Thiếu tá Hiền, Cảnh sát trưởng Quận 5 cho biết vì phải bận bàn giao công việc nên đến cuối tuần này ông mới tham dự khóa học được. Ông cũng có nói về các anh, những người hùng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Lời nói đó cũng xứng đáng với 6 hàng huy chương nằm hiên ngang trên ngực Cẩn gồm :
1 Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương, 25 ngành dương liểu và 45 ngôi sao Anh dũng bội tinh, cộng thêm 3 chiến thương bội tinh và 4 huy chương Hoa kỳ, không có huy chương “ăn giỗ” nào!
Tôi phải giấu thật kỷ số huy chương của mình, chẳng bao giờ tôi dám đeo khi có mặt Cẩn. Cẩn còn được Quân đoàn 4 bầu làm chiến sĩ xuất sắc trong nhiều năm liền và được Quân đội tưởng thưởng cho đi du hành quan sát các nước Á châu.
Qua phần giới thiệu thăm hỏi, Bảo Vinh mời chúng tôi đi nhà hàng dùng cơm. Vì sự mời mọc quá chân tình, chúng tôi khó mà từ chối được, tuy mới gặp nhau lần đầu. Biết tính Cẩn hay mắc cở (tuy là người hùng ở chiến trường nhưng khi gặp gái là chàng rất e dè, có lẽ vì thế mà Cẩn hay bị các cô chiếu cố!) nên tôi nhanh nhẹn ngồi vào ghế trước cạnh Bảo Vinh, để cho Cẩn phải ngồi phía sau với Thu Hương. Không biết Cẩn có thích không, nhưng chắc anh cũng rủa thầm về cái tội gán ghép đáng yêu của tôi.
Trước lạ sau quen, dần dần mọi rụt rè nơi Cẩn đã cất cánh bay xa. Hai người nói chuyện rất tâm đầu ý hiệp. Từ chuyện chiến trường đến chuyện tình đôi lứa.. Tôi và Bảo Vinh nhìn họ và uống rượu. Tôi có cái tật là càng uống càng ít nói, vả lại nói chuyện làm ăn thì tôi mù tịt còn nói chuyện chiến trường với Bảo Vinh thì có khác nào ông ta nói chuyện áp phe với tôi. Vì vậy chúng tôi chỉ biết nâng ly mời nhau.
Đêm Đà Lạt thật êm ả, cái lạnh đã bị đốt cháy bởi hai chai Courvoisier. Nhìn những giọt nước chảy nhẹ trên thành ly, tôi bất chợt nghĩ đến thân phận người lính giữa chiến trường, lấy cái chết làm an bình cho thành phố! Bạn bè của đơn vị tôi giờ này đang lặn lội nơi vùng sình lầy miền Tây. Sáng đi theo đoàn tàu của Lực lượng Đặc nhiệm Thủy bộ 211, phối hợp giữa Hải quân và Thủy quân Lục chiến đổ bộ dọc theo những con kinh, lội nước từ bụng lên đến cổ, có khi ngập đầu của Tỉnh Chương thiện cam go nhất vùng 4.
Những trận đánh cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn hầu như dành riêng cho chúng tôi. Đó có phải là điều hãnh diện hay sự “vắt chanh bỏ vỏ” của các Quân khu dành cho những đơn vị Tổng trừ bị?
Họ muốn đem sự yên bình lại bằng con số xác chết cao vút của chúng tôi. Họ đợi khi nào tình hình căng thẳng nhất thì xin chúng tôi đến và không ngần ngại xử dụng như những con vật tế thần. Tìm những nơi nào Quân khu không thanh toán được là đẩy chúng tôi vào. Có khi hành quân 7 ngày, cõng trên lưng nào là thực phẩm, đạn dược, vủ khí, quân trang, khi vừa hết lương thực thì được yêu cầu ở lại chiến trường thêm một kỳ tiếp tế nữa. Cứ như vậy cho đến khi chúng tôi kiệt sức, tinh thần căng thẳng mới cho rời vùng hành quân ra để phòng thủ giữ an ninh vòng đai Quân khu. Sau vài ngày xả hơi lại được tống vào vùng cam go khác cho đến khi nào Bộ Tổng Tham Mưu đòi lại mới thả về.
Nhưng hỡ ôi! Quân khu này thả ra thì Quân khu khác bắt lại và chiến thuật cố hữu lại được đem ra xử dụng.
Giờ ngồi hình dung lại, quả thật tội nghiệp cho hai Binh chủng Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến. Vì vậy có nhiều cấp chỉ huy chỉ có một con đường duy nhất để chọn nếu họ thương lính. Đôi khi cũng làm ngơ khi lính của họ đánh nhau với lính địa phương để cho người cha ghẻ nơi họ tăng phái buông tha họ ra để họ còn được thấy thành phố, hậu phương, vợ con hay người yêu! Đây không phải là biện luận hay kiêu binh mà là sự thật. Việt cọng chỉ gờm có chúng tôi, vì lần nào chạm trán chúng cũng bị 90% thất bại nặng nề.
Thu Hương đã đưa tôi trở về hiện tại:
– Làm gì mà anh ngồi yên lặng như pho tượng Thương Tiếc ở Xa lộ Biên Hòa vậy anh Hòa?
Tôi chỉ lắc đầu thở dài và uống cạn ly rượu còn lại. Tôi và Cẩn có thể nói là đôi kỳ phùng địch thủ về uống rượu. Chúng tôi gặp nhau, lúc nào cũng 2 chai trở lên, uống đến mềm môi vẫn chưa say. Nhất là khi nghe tin một thằng bạn vừa gục ngã nơi chiến trường! Và cái hơi ngà ngà say của rượu đã giúp tôi làm được nhiều bài thơ ưng ý mà có lẽ lúc bình thường chẳng bao giờ tôi viết được như thế.
Hai giờ sáng chúng tôi trở về trường. Tôi nhận thấy Thu Hương, cô gái có dòng máu nửa Tàu, nửa Việt này hơi lãng mạn. Một sự lãng mạn đáng yêu dễ hòa nhập với lính khi nàng tâm sự:
– Nhìn những chiếc lá bay vô tình trong gió, em ví như những cái chết bất ngờ của những người lính trận! Em biết rằng mình sẽ khổ khi có người yêu là lính, nhưng em cũng rất hãnh diện khi được sánh vai với người hùng đi trong chiều nhạt nắng, giữa rừng thông để nghe tiếng lá reo vi vu hòa với gió chiều. Em thương người lính trận, các anh như những viên sỏi nhỏ lăn theo triền dốc cuộc đời, với những chuyến đi dài mà không biết đến ngày mai đời mình sẽ ra sao?
Những chiều cuối tuần tôi và Cẩn thường hồi hộp đợi điện thoại của Thu Hương. Thỉnh thoảng nàng cũng mời thêm vài người bạn gái. Nhận được điện thoại thì mừng, nhưng đôi khi cũng nhói tim vì hai đứa có lúc sạch nhẵn không còn một đồng dính túi. Chẳng lẽ đi chơi với người đẹp lại để cho họ đài thọ?
Đêm Noel 1969, chúng tôi lại rơi vào cảnh ấy. Tôi lúng túng không biết tháo gỡ bằng cách nào để có tiền chi phí cho đêm Giáng sinh. Riêng Cẩn vẫn ung dung chọn bộ đồ ngụy trang thật đẹp, cạo râu chải tóc cho đúng câu “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao” rồi hướng về tôi đề nghị:
– Chúng ta đi sớm một chút nghe Hòa.
Thay vì trả lời, tôi chỉ vào cái túi quần lộn ngược. Cẩn cười bảo:
– Yên chí lớn ông bạn.
Ra đến chợ Hòa bình, Cẩn ghé vào một tiệm bán vàng. Một cô bé thật xinh, khoảng 17, 18 tuổi đứng trông hàng e ấp chào chúng tôi và hỏi:
– Hai ông muốn mua gì?
– Tôi muốn bán cái này.
Vừa nói Cẩn vừa chỉ vào cổ áo, chiếc lon Thiếu tá lấp lánh dưới ánh đèn đêm làm nó càng rực rỡ thêm. Cô bé tưởng Cẩn muốn trêu chọc mình nên chạy vào gọi mẹ. Bà cụ ra chào chúng tôi và nói đùa:
– Bộ Thiếu tá muốn chúng tôi đóng cửa tiệm hay sao mà dám mua tới Thiếu tá?
Cẩn vừa cởi lon vừa nói:
– Xin lỗi cụ. Hôm nay kẹt quá phải nhờ đến nó. Đây là vàng thật do mẹ tôi tặng khi tôi vừa được vinh thăng. Lên Trung tá tôi sẽ sắm lại gấp đôi.
Cẩn bẻ đôi cặp lon, phần hoa mai bạc cho vào túi và bán 2 cái đế đáng giá một lượng vàng. Nhờ vậy mà chúng tôi có một đêm Noel tràn ngập tiếng cười, quên đi cái xót xa “bán lon nuôi miệng!”
Cẩn có những cái kiên nhẫn và cố gắng tột cùng. Tôi không thể nào quên được, như khi còn là Sinh viên Sĩ quan.
Một đêm Cẩn gọi tôi ra giữa trời nhìn những vì sao lấp lánh Cẩn nói lên cái ước mơ của đời mình và muốn tôi cùng Cẩn đạt được. Một ước mơ với tôi quá xa vời, nhưng Cẩn nói với đầy tham vọng:
– Tương lai chúng ta phải làm tướng!
Tôi chỉ kêu trời, vì thấy quá viễn vông, nhưng khi ra trường, càng về sau tôi mới thấy được cái chí lớn nơi Cẩn. Cuối cùng của cuộc đời, Cẩn cũng đã nhìn thấy và nắm được những vì sao ngút ngàn, tận bên kia cuộc sống!
Sau mùa hè đỏ lửa 1972, Cẩn đã là một Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và ở cái tỉnh “nóng” nhất của Vùng 4 Chiến thuật. Chương thiện với những địa danh mà nhiều cơn bão lửa đã tràn qua như: Kiên An, Kiên Hưng, Hiếu Lể, Gò Quao… muôn ngàn kinh rạch chằng chịt. Một cái tên mà không người lính miền Tây nào có thể quên được.
Có một Quận nọ, cứ mỗi chiều là ngài Quận Trưởng gọi máy về Trung tâm Hành quân Tỉnh để xin phản pháo vì Việt cọng pháo kích hoặc tấn công. Một hôm, sau khi Cẩn cho thỏa mãn tối đa, và được báo cáo là quân ta bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực, Cẩn ra lệnh cho Trưởng phòng 3 chuẩn bị lên đường đến Quận nọ (chuyện này do chính vị Trưởng phòng 3 ấy kể lại với Tác giả khi còn cùng ở trại tù ngoài Bắc việt).
Khi gặp Cẩn, ngài Quận trưởng như từ cung trăng rơi xuống. Ngài không ngờ giờ này mà Cẩn dám đi đến Quận với một chiếc jeep không có hộ tống mà cũng chẳng có đơn vị mở đường. Quan Quận đang nằm trên ghế xích đu nhấm Martell, chiếc máy truyền tin được kéo dài đến tận chỗ nằm và bên cạnh là người đẹp đang phục vụ.
Cẩn đi thẳng xuống Trung tâm Hành quân của Quận vừa nhìn bản đồ vừa ra lệnh cho Quan Quận:
– Tôi muốn những Ấp loại C sau 3 tháng được nâng lên loại B và những Ấp loại B sau 3 tháng được nâng lên loại A (xếp loại theo tình hình An ninh).
Nói xong, Cẩn quay về Tỉnh. Từ đó Ngài Quận trưởng làm việc trối chết, khi biết rằng Cẩn neo mình bằng một hình phạt không nhẹ hơn cách chức hay đưa ra Tòa án Quân sự.
Đúng 3 tháng sau, Cẩn trở lại Quận và ngủ đêm với Quận trưởng ở một số Ấp do Cẩn chỉ định. Kết quả đúng như ý muốn của Cẩn, một thời gian ngắn sau Cẩn đến Quận với cặp lon mới nguyên dành cho công lao của Quận trưởng và không đá động gì đến lỗi cũ.
Công lao và sự hy sinh của Cẩn không giấy mực nào kể hết. Tôi xin dành lại cho những người hiểu rõ về Cẩn nối tiếp tôi thắp sáng việc Cẩn đã làm cho Tổ quốc.
Trở lại chuyện những ngày ở Đà Lạt, tháng ngày qua mau như một giấc mơ đẹp và buồn. Vết thương của tôi đã bình phục hẳn và tâm hồn cũng đã thanh thản.Tôi lại thèm những chuyến đi, tôi nhớ những nơi đèo heo hút gió. Từ vùng sình lầy U Minh như Năm Căn, Cái Nước, Đầm Dơi.. cho đến miền địa đầu giới tuyến Đông Hà, Lao Bảo, Khe Sanh hay miền Cao nguyên trùng điệp Darkto, Darksuk. Nơi nào cũng có dấu chân chúng tôi để lại. Chúng tôi những người lính mà Việt cộng gờm nhất và khi mất nước cũng lại là những người lính bị trả thù nặng nhất.
Tôi còn nhớ năm 1982, khi còn bị giam ở Vĩnh phú, Bắc việt. Một phái đoàn Việt cộng thuộc Bộ nội vụ, bọn chúng đến trại giam chúng tôi. Hôm ấy đến phiên tôi trực cho Đội (1 đội gồm 30 người) nên tôi phải nấu nước và thức ăn cho các bạn tù khác đang xây cất nhà tù kiên cố bằng vật liệu nặng. Gặp tôi chúng làm ra vẻ thân mật hỏi tên, chức vụ, cấp bậc, đơn vị. Sau khi biết tôi là Trung tá Tiểu đoàn trưởng Thủy quân Lục chiến, chúng kéo 3 tên chia nhau quần thảo tôi:
– Anh đi lính từ năm nào? Lúc mấy tuổi? Mãn khóa sĩ quan ngày nào?
Chúng hỏi với giọng trịch thượng. Tôi đang ngồi bên bếp lửa, lon cóng bao quanh thùng nước, khói mù mịt, quạt luôn tay vẫn không cháy. Cộng với cái nóng đang đun sôi bằng lòng căm thù, mắt tôi đã nổ đom đóm. Tôi nói khác đi thay vì trả lời ngày mãn khóa sĩ quan.
– Tôi vào lính lúc 12 tuổi.
Một tên thấy khó chịu hiện rõ ra mặt, hỏi gằn lại tôi theo lối hỏi cung:
– Anh định đùa với chúng tôi hả? Ngoài này khi rất cần cho chiến trường chúng tôi cũng chỉ lấy 13 tuổi.
– Tôi vào Thiếu sinh quân lúc 12 tuổi.
Chúng à lên một tiếng như có xương cá mắc ở cổ.
– Anh tham dự bao nhiêu trận đánh?
– Tôi không nhớ hết, hầu như Quân khu nào cần là có chúng tôi.
– Anh giết bao nhiêu Cán bộ và Chiến sĩ của chúng tôi?
– Phần này thật thà mà nói, chúng tôi có những mục tiêu sau khi thanh toán xong, không thể nào kiểm điểm được hết và đầy đủ.
Sau câu trả lời của tôi, có lẽ nếu giết được tôi lúc đó chắc chúng cũng chẳng tha. Một tên khác lại hỏi:
– Anh thắng bao nhiêu trận và thua bao nhiêu trận?
Sự kiên nhẫn của người tù khổ sai, biệt xứ như tôi đã mất đi, mặc dù biết thân phận mình như cá nằm trên thớt, tôi vẫn trả lời theo sự thật và sự thật bao giờ cũng phũ phàng. Nhận thấy không khí mỗi lúc một căng thẳng, tôi thầm nghĩ: “Bọn này thuộc loại chính trị chứ không phải quân sự, mình nên cẩn thận kẻo chúng cột là vô phương gỡ”.
– Sự thật thì tôi chưa thua trận nào, nếu có thì cũng chỉ là những Tiểu đội tiền đồn hoặc tổ báo động của chúng tôi bị tràn ngập bởi một lực lượng lớn bên phía cán bộ thôi.
– Anh nói thật đấy chứ? Tôi còn kiểm soát lại nữa.
Chưa chi nó đã giở giọng hăm dọa, tôi bèn dẫn chứng cho chúng hiểu câu trả lời của tôi:
– Rất tiếc, cán bộ thuộc về chính trị, còn tôi nói về quân sự chiến thuật, chiến lược có lúc chúng ta không thông cảm được nhau.
Tôi lại đi thêm một đường giải thích tỉ mỉ hơn.
– Chúng tôi là đơn vị Tổng trừ bị, những trận chúng tôi tham dự đều được tổ chức kỹ lưỡng. Có cả Hải, Lục, Không quân yểm trợ. Nếu chúng tôi cầm chân các đơn vị của cán bộ càng lâu thì sự thiệt hại càng nặng vì lúc bây giờ chúng tôi làm chủ tình hình về vùng biển cũng như bầu trời. Riêng về Bộ binh thì hỏa lực của chúng tôi mạnh, quân số đông…
Cuối cùng chúng bề hội đồng tôi:
– Như vậy thì ngày 30/4/1975 các anh thắng đấy chứ?
Đã lỡ ngồi vào bàn cờ tướng, không khéo thì sẽ bị chiếu bí. Tôi tiếp:
– Nói riêng về đơn vị do tôi chỉ huy, tôi chỉ biết thi hành lệnh. Bảo chúng tôi rút lui, chúng tôi lui, bảo tiến chúng tôi tiến. Cuối cùng Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng, đã là lính chúng tôi chỉ biết thi hành kỷ luật quân đội mà thôi.
Chúng vẫn còn bản tính luôn trở mặt như trở bàn tay nhưng vì được huấn luyện chính trị kỹ. Hơn nữa cuộc nói chuyện giữa thanh thiên bạch nhật nên trước khi bỏ đi chúng kết luận:
– “Chả trách chiến tranh kéo dài mãi cho đến 1975! Đáng lẽ nó được kết thúc sớm hơn nếu không có những con người mù quáng, gây nhiều nợ máu với nhân dân như đơn vị của các anh. Ở ngoài này xem các anh là những đứa con bà Sơ, do đế quốc Mỹ tạo ra và nuôi dưỡng để bảo vệ chế độ, đánh phá Cách mạng!”
Chúng đi rồi tôi mới thấy lòng mình thanh thản vì tôi không làm nhục lương tâm mình cũng như bạn bè đồng đội đã một thời cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương.
Xa nhau từ dạo ấy cho đến ngày đất nước điêu linh. Tôi bị tù 13 năm không bản án, còn Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã đi vào Quân sử!
Quân thù sẽ mãi mãi cúi đầu trước sự dũng cảm của bạn, Cẩn ơi! Bạn sẽ chẳng bao giờ chết, chúng tôi sẽ thắp sáng tên bạn trong tâm hồn mình và khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam và cả thế giới bao la. Bạn là một trong những anh hùng của Quân Lực Việt nam Cộng hòa. Một tấm gương sáng để truyền lưu cho hậu thế. Xin cho tôi kết thúc phần nói về bạn bằng một bài thơ:
Khóc Đại tá Hồ Ngọc Cẩn!
Mưa trong đêm vắng…
Thánh thót những giọt buồn
Người lữ hành cô độc đang đi qua đoạn đường dài hiểm trở
Những bước chân thầm lặng mà nghe vang vọng rất xa
Tôi nghe trong gió
Tim anh ngân vang bài ca thế hệ
Dư âm đã gọi mùa thu thức giấc
Những giọt máu trổ bông trong từng khối óc con tim chân thật
Đêm thì dài, dài như thế kỷ đau thương của chúng ta
Anh là trái tim của tuổi trẻ
Là linh hồn của những người yêu nước đấu tranh
Anh cô đơn vây hãm trong bốn bức tường thành
Tôi muốn tìm đến với anh trong những đêm dài trăn trở
Tôi quá thấp hèn bên anh sáng ngời muôn thuở
Xin cho tôi được vun trồng
Những cánh hoa đẹp trên từng dấu chân anh đi
Vì nợ nước gạt bỏ tình nhà
Anh là đảo hoang giữa biển cả bao la
Là vì sao sáng trong đêm huyền ảo
Là ngọn hải đăng hướng dẫn mọi con tàu
Vượt bão táp phong ba trong những chuyến hải hành xa thẳm
Từ vực sâu linh hồn tôi bơ vơ chìm đắm
Nhờ có anh tôi tìm được phương hướng cuộc đời
Cuộc chiến đấu này hình ảnh Anh sẽ ngời sáng trong chúng tôi
Và muôn triệu cánh tay cùng viết lên trang sử mới!
Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa
Nguồn Anka Pham