Tôi viết lại bài này như một hồi ức đau buồn đã qua. Nó cũng giống như ngày nào “ Miền Nam sau ngày giải phóng”. Bởi vì Đảng vĩ đại ngay cả trong những sai lầm của họ.
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
(Trích bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần sáng tác năm 1955, đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân 1956)
Bài thơ của Trần Dần là hình ảnh tóm gọn đầy đủ về Hà Nội sau 1954. Không ai có thể nói hơn được Trần Dần qua bốn câu thơ đó. Nhưng cũng vì bốn câu thơ này đã làm ông lao đao suốt cả đời. Kể từ đó, không ai viết về Hà Nội như thế được nữa.
Đó là Hà Nội thật. Hà Nội đổi chủ. Hà Nội sau 1954.
Phải đợi đến Nguyễn Ngọc Lan, sau 1975, ra thăm miền Bắc về viết bài: Hà Nội tôi thế đấy trên tờ Đứng Dậy. Thế đấy là thế nào? Là nghèo nàn, đói rách, tả tơi? Nguyễn Ngọc Lan không nói, để tự người đọc hiểu thế nào thì hiểu. Nhưng Hà Nội hiểu Nguyễn Ngọc Lan xỏ xiên. Không lâu sau 1975 thì đến lượt Nguyễn Ngọc Lan lại bị thất sủng. Viết bài này, tôi nhớ đến hai người ấy.
Bốn giờ sáng ngày 9 tháng 10 năm 1954. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày mà còn nhiều cán bộ nhớ lại là trên đường về Hà Nội: “Tôi nhớ chuyến xe hôm ấy về Hà Nội, hành khách đua nhau hát suốt dọc đường.” (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 37)
Những ngày đầu phấn khởi
Nhà thơ Trần Dần hơn ai hết đã ghi lại trong nhật ký những ngày đầu tiếp thu Hà Nội với niềm tự hào và tin tưởng. Trần Dần, Ghi 1954-1955 như sau.
“Từ ngày hôm qua sang ngày hôm nay là chuyển hẳn từ hai chữ Chiến Tranh sang hai chữ Hoà Bình. Những tiếng đồng hồ này có một giá trị đặc biệt. Dần dần, người ta mới thấy giá trị của những tiếng đồng hồ đó. Số mệnh, nhiệm vụ của hằng triệu con người thay đổi hẳn… Nhưng (…) sự thay đổi nó dần dà, góp gió, góp gió mãi, tôi đợi một cơn Bão chưa lên.
Hôm nọ có bà bảo tháng 10 thì vui thế. Ngày 10 tháng 10 là ngày tiếp quản Hà Nội. Một phút mà cách nhau hai chế độ mấy trăm năm”.
Đó là cảm nhận kỳ diệu của thời gian của một kiếp người. Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do.
Ngày ấy người ta say mê, đầy tương lai trong người. Có cán bộ hay nhắc lại những ngày đó. Cho là dân chóng quên. Không thấy hạnh phúc của mình. Hoài Thanh diễn thuyết ở đảng xã hội cũng nói vậy. Chúng ta chóng quên. Quên mất hạnh phúc lớn của mình. Tôi cũng đồng ý là nên nói như vây.Với điều kiện là phải nghĩ rằng:
chúng ta không thể ăn được bằng dư vị bữa tiệc tháng 10 ấy.
Hà Nội với rừng cờ, biển người
Trong một bài viết trước đây của tôi, tôi cũng chia xẻ tâm tình của người Hà Nội những ngày tháng 10, 1954 như sau:
“Rừng cờ, rừng người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy. Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.”
Hà Nội đã thay đổi diện mạo. Với rừng cờ đỏ. Ở đâu ra mà sẵn vậy?
Đâu đây, người ta thấy một tấm biểu ngữ lớn với hàng chữ thô kệch văn chương lắm:
Cùng nhau múa hát mấy bài
Khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh quang
Người ta nhận thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Có một chút nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ, mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo đôi chân từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ đỏ.
Đôi guốc son thời con gái nay đổi ra đôi dép cao su, hiệu con hổ mầu trắng. Những cô gái áo dài quần lụa trắng vắng bóng dần.
Thay vào đó là những áo cánh nâu chật chội với những thân hình con gái vạm vỡ, lực lưỡng như những lực điền, đi đứng huỳnh huỵch. Những ông công chức với thói quen complet, cravatte, giầy da, mũ phớt lọt thỏm trong đám đông người với những mũ tai bèo.
Nó báo hiệu một thời đã hết. Bời vì lúc ấy nghèo là một chứng chỉ tốt, giầu chỉ thêm mối lo. Vì thế, cũng không thiếu người đã “giả nghèo” chẳng khác gì “giả câm, giả điếc”, “giả ngu ngơ”.
Hoàn cảnh lúc bấy giờ, nó có sự ngược chiều vô lý. Người Hà Nội “giả đi xuống”, che dấu đủ thứ. Người mới tới lại thích phô ra. Họ săm săm đi tìm những phế thải lỗi thời còn để lại. Một anh cán bộ vẫn mũ tai bèo, nhưng gắn thêm đôi kính râm vào mặt, chiếc bút máy parker gài trên túi. Chiếc đồng hồ đeo tay phô ra. Trông anh lố bịch thêm. Nhiều anh không ngại ra tiệm trồng răng gắn thêm hai chiếc răng vàng để cười cho sang. Ở nhà thì ráng mua cho bằng được cái màn tuyn nằm cho thoáng, bõ những ngày muỗi cắn, đi ra đi vào súng sính trong bộ pyjama. Hứng quá, thoải mái quá. Mặc luôn bộ đồ ngủ đi ra ngoài đường cho tiện.
Các nữ cán bộ thì một chút thoang thoảng môi son, chút má hồng. Đủ để cho người ta biết người mình thơm tho. Nhưng lộ liễu quá thì chưa tiện. Và tại sao chối từ một chút nước hoa thay cho mùi ngai ngái của mồ hôi, mùi tóc muối lâu ngày.
Cứ như thế mà cuộc đấu tranh ai thắng ai trong mỗi con người cứ lớn dần lên.
Người ta cảnh cáo cẩn thận hiện tượng mất bản chất.
Nhà văn Vũ Thư Hiên kể cho tôi nghe, về Hà Nội là rủ nhau đi mấy quán ăn ngon cho đỡ thèm. Cũng bị bá cáo và cảnh cáo.
Cảnh cáo cho có lệ. Nhưng chắc chẳng ai thèm nghe.
Phải chăng đó là những sự thay đổi tận gốc rễ của người Hà Nội và cả của người mới tới?
Các bà mệnh phụ trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép, tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Đường phố vốn nhỏ hẹp nay chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác.
Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm! thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo.
Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn, đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Đông, còn được gọi là nhà in Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ, ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ.
Hình như cả thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo.
Vậy mà cái guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn. Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người nhìn người, đi ngược, đi xuôi.
Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay đồng loạt hô to. Muôn năm, muôn năm!!
Chẳng có gì có thể tả hết được cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển đổi, lột xác như thế.
Những đoàn người cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai.
Chính quyền mới trong một tích tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây, Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất một ngày tập huấn.
Trong số ấy, có nhiều nhà tư sản kinh doanh hăng say nay muốn hiến hết cho chính quyền tài sản, cơ nghiệp. Họ phải tự giác, tự làm đơn chờ đợi xem có được chính quyền chấp nhận hay không, chấp nhận thành kẻ hợp doanh với nhà nước. Đó là một vinh dự cho họ được cải tạo từ chủ nhân nay trở thành người lao động.
Sau khi được chấp nhận rồi, họ cất được cái mũ “phớt” tư sản để đội cái mũ” tai bèo”, để hội nhập xã hội mới với những tước danh mới như công thương gia yêu nước, kỹ nghệ gia tiên tiến hay cao hơn nữa được gia nhập Mặt Trận Tổ Quốc và may mắn hơn, xúc động đến oà nước mắt nếu được “xuống” làm phó giám đốc xí nghiệp.
Nhưng thay đổi một cái mũ có đủ để thay đổi được cả một cuộc đời không?
Sau đó thì họ trắng tay, nhưng ngược lại họ trở thành nhân vật được mọi người kính nể. Họ là những người yêu nước tiêu biểu như các ông Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Sơn Hà, ông Bùi Hưng Gia, ông bà Trịnh Văn Bô. (Xem Mặt Thật, Thành Tín, trang 84)
Ở miền Nam sau này cũng như thế, nhưng ở mức quy mô và lớn gấp 10 lần. Họ tất cả đều hoan hỉ hiến cho chính quyền mới. Các vua kẽm gai, vua sắt, vua máy cầy, vua hãng dệt nay xuống thành thứ dân vô sản. Ôi, hạnh phúc biết bao, vì đã được đổi đời?
Trong số những nhân vật uy tín này, người viết có vinh dự được nghe danh ông Ngô Tử Hạ, người đã có công với cách mạng ngay từ những ngày đầu kháng chiến bằng cách in ấn các truyền đơn cho cách mạng và bây giờ hiến toàn bộ cơ sở nhà in, ấn loát cho chính quyền mới.
Nhưng giả dụ, ông Ngô Tử Hạ đã không hiến trước thì liệu ông có giữ được sản nghiệp không và liệu người ta có để yên cho ông làm ăn hay không? Nhưng không ai dám nêu câu hỏi vớ vẩn đó ra nên cũng không bao giờ có câu trả lời.
Tuy vậy, những ngày tháng ấy kéo dài chẳng được bao lâu, vì người ta phải đương đầu với thực tế trước mặt. Người ta dần dần thất vọng. Trong đó có Trần Dần. Và ông đã viết như sau:
“Tháng 10 là bữa tiệc lớn cho nhân dân thủ đô. Nhưng bây giờ là tháng 3.1955. Người ta phải ăn bằng những bữa cơm hằng ngày”…
Không thể ăn bằng ký ức một bữa tiệc từ năm ngoái
Câu hỏi được đặt ra saụ 5 tháng sống dưới chế độ mới. Người ta được gì?
Nỗi mừng, niềm vui qua mau và bây giờ là cuộc sống cơm áo với trăm điều phải lo.
Nay thì lo là chính, lo lấn át tất cả. Mừng là phụ.
Nỗi mừng nay biến thành nỗi lo và cả miền Bắc đều lo như vậy.
Bức màn tre phủ xuống trên toàn miền Bắc
Một bức “màn tre” đã phủ xuống trên toàn miền Bắc. Chữ bức “màn tre” lần đầu tiên được người ta dùng để thay thế cho chữ bức “màn sắt” quen thuộc để chỉ các nước cộng sản như Liên Xô hoặc Đông Âu.
Ngữ nghĩa chữ bức màn tre là chỉ thị một chế độ độc tài, khép kín, bưng bít che đậy không để lọt ra thế giới bên ngoài những gì đang xảy ra bên trong đó.
Trong vòng 20 năm, bức màn tre ở miền Bắc đã xảy ra 3 điều cực kỳ quan trọng là: Một là về chính trị, họ tiến hành chiến tranh nhằm xâm chiếm miền Nam. Hai là, về xã hội, khi cuộc di cư vừa chấm dứt thì vào khoảng tháng 5/1955, chính quyền miền Bắc quay trở lại chính sách Cải cách ruộng đất đã thực hiện từ 1953, sau đó tiến hành Hợp tác hóa nông nghiệp. Ba là, về văn hóa, trấn áp giới văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn giai phẩm.
Cả ba vụ việc đó đều dùng Bạo Lực “cách mạng” để đạt được mục đích bằng sự hy sinh xương máu của người dân theo đúng tinh thần của Các Mác: Bạo lực là bà đỡ của Cách Mạng.
Sau này liên lạc giữa hai miền Nam Bắc ngăn cách bởi bức màn tre này thành hai thế giới và sự liên lạc giữa hai miền giới hạn vào những tấm thư bưu phiếu. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi mất hẳn. Số phận những người chọn ở lại hay bất đắc dĩ phải ở lại sau bức màn tre đó ra sao? Không còn ai biết được nữa.
Bài viết sau đây dành chọn để ghi lại hoàn cảnh miền Bắc sau 1954 với tất cả những trớ trêu lịch sử oan khiên và những hệ lụy từ chế độ đó mà ra.
Xin ghi tiếp phần nhật ký 1954 của Trần Dần để thấy được những thực trạng Hà Nội sau 1954 và những đổi thay, chuyển biến tâm trạng của nhà thơ Trần Dần.
Nhà thơ viết tiếp những suy tư của mình:
Về Hà Nội được đúng 10 ngày. Hà Nội ít thay đổi. Gặp bố. Anh Đường. Cháu Hà. Anh Lan. Gặp bạn. Trần Mai Châu. Một số người không gặp.
Nay thì những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó.Tôi bị bao vây. Chặt quá, ép quá… Tôi muốn gạt những núi định kiến mà ngoi lên thở.. Nhưng sao buồn thế? Khổ thế ? Nhiều lúc tôi tưởng như mất cả cuộc đời rồi.
Tay buông xuôi. Chân duỗi thẳng. Tôi buồn như người đã chết.
Cái màn biểu diễn giáng xuống đầu tiên là việc đổi tiền từ tiền Đông Dương sang tiền cụ Hồ. Trong vụ đồi tiền này, người dân tự nhiên mất 2/3 tài sản của mình. Cụ thể là một bát phở trước đây giá là 3 đồng bạc Đông Dương. Mọi người đều bị móc mất số tiền ở trong túi. Nay muốn ăn một bát phở như thế, phải trả là 10 đồng,
Người cộng sản quả là có tài tạo ra sự khan hiếm y trang miền Nam sau này.
Muối, đường, vải vóc tự nhiên trở thành khan hiếm.
Và người ta kháo với nhau rằng, nếu cộng sản làm chủ sa mạc thì chẳng bao lâu, cát sẽ trở thành khan hiếm, phải xếp hàng mới mua được.
Cuộc sống kể từ ngày hôm nay báo hiệu những ngảy đen tối sắp tới.
20/01/1955
Những ngày cuối năm.
Tết năm nay ở Hà Nội. Ít cành đào quá. Hoa thủy tiên cũng hiếm. Hàng sách chưa thấy những bìa xanh đỏ. Phố Hàng Mã có ít hoa giấy. 10 giờ, phố xá đóng im ỉm. Vắng tanh vắng lạnh. Những dãy phố Bà Đanh này phản ảnh tình hình chính trị kinh tế bây giờ. Còn thiết quân luật. Những ngày đầu tiên của Hòa Bình còn gặp nhiều khó khăn. Nạn đói khu tư. Nạn di cư miền công giáo. Khu 4. Vụ Ba Làng nổi loạn. Hải Phòng phá giá đồng bạc. Các ổ Mỹ, Ngô Đình Diệm phá hoại hòa bình, kều người đi Nam. Đô la Mỹ vẫn làm người ta tốt mắt. Chính nghĩa thì nghèo.
Kinh tế ta vừa thoát khỏi nanh vuốt Mỹ Pháp, còn non yếu, như đứa bé sơ sinh đỏ hon hỏn. Cán bộ máy móc. Vụ thuế công thương gây một panique lớn. Các rạp hát ế khách. Các hiệu ăn chuyển sang phở nhiều. Giá hang đắt lên. Tiền Đông Dương ăn hơn 70 rồi. Nhiều người thất nghiệp. 6 vạn công nhân. 3 vạn cán bộ miền Nam. 30 vạn đồng bào miền Nam phải xếp việc. Trí thức không có việc. Nghệ sĩ chưa tìm được cách sống cho bằng trước. trường tư sụt đi nhiều. Báo chí bán rẻ, ế. Khả năng mua sách của Hà Nội sụt đi. Hiệu cúp tóc vắng. Cyclo bí, cơ quan cán bộ không đi. Lạp sường lồ mát phàn một đêm khéo lắm bán đưuợc cho hai người…
Đúng vây. Kẻ tà có đô la. Chính nghĩa không có tiền. Tùy từng người chọn đường.
(Trích Trần Dần, Ghi 1954-1960, Phạm Thị Hoài biên tập Văn Nghệ phát hành)
Đấy là bức tranh toàn cảnh đời sống miền Bắc sau 1954 được Trần Dần ghi lại đầy đủ và trung thực sau khi hòa bình trở lại. Bức tranh đó nhắc nhở người ta nhớ câu nói của Tacite xưa như sau:”
“Ils firent un désert et l’appelèrent Paix”. (Họ xây dựng nên một sa mạc và gọi đó là Hoà Bình).
Những suy nghĩ của Trần Dần viết ra là rất nhân bản, rất gần gũi và hơn 25 năm sau, tháng 10, 1991, một Trần Dần thứ hai xuất hiện. Sâu sắc hơn, cay đắng hơn, “tàn bạo” hơn. Đó là Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh khi ông viết về cuộc sống của ông, đúng hơn về tiểu đoàn 27 mà cho đến 75 chỉ còn sống sót 10 người trong số 500 người lúc đầu:
”Đến bây giờ, lúc này đây, bạn hãy xem thực chất quanh ta có gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến? Nền hoà bình này…Hừ hình như tôi thấy các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bầy ra gớm chết. Bao nhiêu xương máu đã đổ ra”.
Dưới mắt Trần Dần quả thực Hà Nội đã không còn như trước nữa.
Nạn đói đe dọa là có thực.
Nạn đói đe dọa
Khu tư đã rơi vào cảnh đói kém, mất mùa như trong phúc trình của đại sứ Ba Lan. Trong bản báo cáo tháng gửi về nước ông, ông đại sứ viết:” Thị trường cần cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh. Báo cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau: “Một trong những khó khăn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn đói… Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan:
“Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”. (Báo cáo của đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 2/5/1955)
Không có viện trợ thực phẩm của Trung Quốc thì đói to.Tình trạng lương thực ở miền Bắc rất đáng lo ngại mà theo cách tính sơ khởi là mức tiêu thụ gạo không quá 250kg/ mỗi đầu người/ năm (1955 là 286kg/người. 1957 là 285.7kg/người).
Người Pháp cuốn gói ra đi
Nạn đói kém xảy ra phần lớn là do hậu quả sau chiến tranh và sự ra đi của người Pháp cuốn gói theo họ tất cả những gì có thể chở đi được. Người Pháp trù liệu chuyển vào Nam qua tầu chiến Mỹ toàn bộ xe cộ, xe tăng, thiết giáp, súng ống, đạn dược. Trong đó 200.000 tấn đã được dự liệu đưa vào miền Nam. Thêm vào đó là máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liêu (raw materials) kho hàng, tất cả đã được chở vào miền Nam. Tính ước lượng trị giá bằng tiền vào khoảng 2000 triệu francs…Cũng vậy, có 29 trên 30 các xưởng kỹ nghệ của Pháp được tháo gỡ, chuyển vào Nam.
Vì thế, chính quyền mới sau khi tiếp quản các cơ sở kỹ nghệ phải đương đầu với tình trạng bất khả dụng hay khiếm dụng. Chẳng hạn, nhà máy xi măng Hải Phòng, chỉ sản xuất được bằng phân nửa so với trước đây. Sau này nhà máy được xây dựng lại do sự giúp đỡ của Liên Xô từ tháng 9-11/1955 và hoạt động 24/24 với 3 tốp thợ, mỗi tốp 2000 người. Tuy nhiên, cho đến 1956, nó cũng chỉ đạt được 61% tổng sản lượng của năm 1939. Sản lượng xi măng của nhà máy Hải Phòng là 400.000 tấn/năm, trước 1954 đủ cung cấp cho nhu cầu xi măng của miền Bắc.
Nhưng tệ hại nhất vẫn là mỏ than Hòn Gai, trước đây mỏ than Hòn Gai được trang bị máy móc của Mỹ. Năng xuất dĩ nhiên là cao. Nay người Pháp đã tháo gỡ trở đi thứ gi cần phải tháo gỡ, thứ gì dùng được và ngay cả thứ gì xét ra không dùng được, nhưng nếu có thể làm trở ngại cho việc sản xuất thì cũng không từ.
Đó là tình trạng Sabotage, phá hoại trước khi bỏ đi. Ấy là chúng tôi không muốn nhắc tới sự phá hoại trực tiếp (sabotage) của nhóm tình báo của đại tá Lansdale vào những ngày cuối cùng của thời hạn 300 ngày theo Hiệp định Genèva.
Vì vậy, việc sản xuất than ở Hòn Gai đã phải quay trở lại thời kỳ tiểu công nghệ lấy sức của người lao động làm chính. Sẽ bốc dỡ than bằng tay, khuân vác bằng sức người. Bao nhiêu công việc nặng nhọc trước đây do máy làm thì nay con người phải lấy sừc người ra mà làm.
Từ đào bằng máy chuyển sang đào bằng tay, sự vận dụng sức người ờ đây phải được kể là vô cùng khó khăn và vất vả cho người lao động. Và chính quyền mới đã bắt đầu làm lại như thế đấy. Nghĩ tới mà khiếp sợ. Và nên nhớ rằng: với sức người, sỏi đá cũng thành cơm.
Nhà máy sợi Nam Định cũng chỉ hoạt động bình thường sau khi Trung Cộng tặng cho 500 máy dệt tự động vào đầu năm 1957. Nhà máy bột giấy (paper mill) cũng được Trung Cộng trang bị lại máy móc và nay hoạt động lại ở Thái Nguyên.
Nhưng quan trọng nhất là nhà máy cơ khí ở Hà Nội được Liên Xô tài trợ và bắt đầu xây cất vào tháng 12/1955. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 1, trang 262-263)
Con đường xây dựng Xã Hội chủ nghĩa từ 1954 đến 1975 và từ 1975 đến nay đã đi được bao nhiêu đoạn đường và còn cần thời gian là bao nhiêu năm nữa?
Ruộng đất bỏ hoang
Lý do thứ hai gây khó cho chính quyền mới là ruộng đất bị bỏ hoang. Nhiều ruộng đất lúc chiến tranh đã bị bỏ hoang và chiếm 7% số ruộng đất canh tác ở miền Bắc. Ruộng đất và làng mạc của nông dân các vùng xôi đậu đã bị máy bay Pháp bỏ bom, hoặc nã đạn pháo mỗi ngày, đúng giờ, khoanh vùng tình nghi như một vùng khủng bố trắng “white zone”, giống như No man’s land của người Mỹ sau này.
Nhiều khi, nông dân phải cầy cấy ban đêm vì sợ máy bay, sợ bị đạn pháo. Hơn nữa, cho dù có cầy cấy được thì đất canh tác thuộc vùng Trung Châu Bắc Việt vốn là vùng đất rice- deficit, năng xuất thấp, không đủ cung cấp cho cư dân Bắc Việt, hoặc chỉ là độc canh nên quanh năm thiếu hụt cần sự cung cấp lúa gạo từ trong Nam ra mỗi năm.
Nay tất cả nguồn cung cấp ấy không còn nữa.
Những ruộng đất ấy đã được canh tác cả hàng ngìn năm. Đất đã hẹp, mật độ dân số đông, ruộng đất bị khai thác triệt để như cấy hai mùa, cấy xen kẽ.
Đất không được nghỉ ngơi.
Mỗi mùa, cần đào sâu thêm để được đất mầu, đất tốt. Đào sâu thì chỉ gặp đất thịt, đất đen, mầu mỡ không cò. (Xem thêm Nông dân Bắc Việt, Nguyễn Văn Canh, trang 134)
Nạn lụt, hạn hán và giông bão gây mất mùa
Nếu chúng ta còn thuộc một vài câu ca dao còn sót lại để mô tả cái lo lắng của người nông dân miền Bắc, đã hẳn may ra hiểu đuợc hoàn cảnh của họ. Đó là hoàn cảnh bất lực của con người trước thiên nhiên với đủ thứ lo lắng:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông Trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng
Cho nên, kẻ thù truyền kiếp của người nông dân vẫn là thời tiết
Chẳng hạn như các vùng đất tân bồi chung quanh tỉnh Nam Định thường gặp thiên tai mỗi năm. Không lụt thì bão tố, không bão tố thì hạn hán.
John Kleinen, trong bài viết Access to Natural Resources for whom? Aquaculture in Nam Dinh, Viet Nam liệt kê các vùng như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Ninh Cơ là vùng đất tân bồi với đụn cát, đất bùn, rộng 72.000 mẫu tây mà người ta chỉ có thể trồng trên đó những cây phi lao. Các vùng đó luôn bị lụt và bão có khi là cấp số 8-9/ giờ. Vì thế, người ta phải nhiều lần đắp các đê biển (sea dykes) từ những năm 1892-1900, 1934-1939 và sau này 1957-1962 và 1962-1971 để ngăn lụt và chống bão. Đê biển ở các vùng trên chạy dài đến 80 kilômét với mật độ dân số rất cao, trên 1000 người/km2.
Cho nên lụt cũng chết mà hạn hán cũng chết. Vụ mùa tháng 5.1954 thì hạn hán. Nhưng tháng 12, 1954 thì bị lụt. Lụt và hạn hán quanh năm làm khổ người nông dân miền Bắc. Sau này cũng vậy, vào năm 1959, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã ra trước Quốc Hội cho biết kết quả việc thu hoạch năm vừa qua là thảm bại: Trung bình thu hoạch chỉ là 1,4 tấn/mẫu. Ruộng tốt, trung bình có thể thu hoạch được từ 4 đến 5 mẫu.Vì thế, tổng cộng chỉ thu hoạch được 1,161,000/ tấn. Thiếu hụt 34,3 % của một mùa gặt bình thường.
Vậy mà nạn lụt đã xảy ra vào tháng 12/1954, ngay khi vừa tiếp quản xong Hà Nội. Đã lụt còn rét căm căm. Đói cộng lạnh là hai nỗi khổ của nông dân miền Bắc.
Đã thế, 90% đê điền ở miền Bắc cần phải được tu sửa. Trong lúc chiến tranh, máy bay đã phá hủy 8 hệ thống đập nước dung để tưới tiêu cho 252.000 mẫu ruộng. Sự sống còn của nông dân tùy thuộc vào sự sửa chửa tức thời hệ thống đê điền này nên chỉ trong vòng một năm 2 triệu 68 vạn ngày công đã dùng để sửa chữa hệ thống đê điền và sửa chữa 2750 kilômét bờ đê để tránh nạn lụt.
Lại một lần nữa cho thấy sự vận dụng sức người ở đây là ngoài sức tưởng tượng được.
Chính quyền mới bắt buộc phải nhập 150.000 tấn gạo từ Miến Điện mà mức thiếu hụt là 200.000 tấn/ năm. (Trích tóm lược Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Vol 1, Ken Post, trang 262).
Nạn thất nghiệp
Tính đến tháng 12/1954, nghĩa là sau hai tháng tiếp quản Hà Nội. Có 6000 cửa tiệm đóng cửa. Trước đây, các khu phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Than, trước cửa chợ Đồng Xuân, lúc nào cũng tấp nập kẻ buôn người bán. Nay chủ hoặc vào Nam hoặc tạm đóng cửa. Nhiều cửa hàng ăn lớn nay đổi ra tiệm phở. Gần 9000 chị em bán hàng rong hết đi rong. Không ai có tiền để ăn quà sáng, quà chiều nữa. 4000 thợ tiểu công nghệ như thợ may, thợ bạc phải đổi nghề, hoặc về quê làm ruộng. Chưa kể 20.000 thợ thuyền đủ loại không có công ăn việc làm.
Hà Nội vắng hoe vì thiếu những người bán hàng rong
Trần Dần đã thấy một Hà Nội vắng bóng người. Bởi vì thiếu những người bán lẻ, lưu động. Những người bán hàng rong vốn là nét sinh hoạt cá biệt, sinh động của Hà Nội. Cái làm nên Hà Nội là Hà Nội. Đó là những “cửa hang lưu động” vốn liếng chỉ là quảy đôi quang thúng, hay đôi khi chỉ là một cái thúng đội đầu. Sang ra thì cửa hàng được thiết kế đằng sau chiếc xe đạp như các cửa hàng bán cá giống, bán chim cảnh, bán đồ chơi cho trẻ con, “ciné lưu động”, bán kẹo, nhất là kẹo kéo, bánh bao v.v… Nhiều cửa hàng này đi đến đâu được trẻ con bu lai chung quanh như coi phim (phim thường thường có bón lỗ để nhòm hai bên, phim câm, các loại phim thời đó như Zôrô bịt mặt, hay phim Tarzanv.v…) xem cá cảnh, bán kẹo kéo. Những tiếng rao hàng đủ loại từ sáng đến tối. Tiếng gõ “tục tắc” vui tai đến tiếng lè nhè ”phá xang” nay không còn nữa.
Hà Nội im lặng như Trần Dần mô tả.
Những cửa hàng “lưu động” như gánh phở, cà phê buổi sáng, rất hương vị, mùi cà phê, mùi phở buổi sang bay tỏa thơm đến thèm thuồng.
Đó là những hương vị Hà Nội hay miếng ngon Hà Nội rất ấn tượng làm nên Hà Nội nay cũng không còn nữa.
Hà Nội “chết” theo cái nghĩa ấy. 9000 người trong số họ phải đổi nghề.
Những người như Trần Dần khi về Hà Nội thèm những hương vị ấy và thấy tiếc nuối cái không khí Hà Nội trước 1954.
Gạo ăn chỉ còn đủ cho 3 tháng. Xăng dầu cạn kiệt chỉ đủ cho một tháng.
Nhất là chính phủ hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát giá cả. Vải một mét trước 1954 là 350 đồng/mét, bây giờ là 495 đồng/mét. Đường 570đồng/kilô nay nhảy vọt lên 2900 đồng/kilo. Xăng dầu 310/lít nay là 1630/lít.
Sự trì trệ và xuống cấp thê thảm của sinh hoạt kinh tế miền Bắc
Kể từ 1955, miền Bắc chỉ giao thương với 7 nước trong khối xã hội chủ nghĩa và 3 nước ngoài khối. Việc xuất cảng nguyên liệu vốn là huyết mạch của kỹ nghệ miền Bắc như than đá, quặng sắt, kẽm.Nhưng mặc đầu còn đói kém, vậy mà lần đầu tiên 1957, ngoài Bắc đã có thể cho xuất cảng bột gạo, sắn, hoá chất Cronit và khoáng chất apatit mà tổng sản lượng lên đến 60% hàng xuất cảng. Việc nhập cảng với các nước anh em chìếm tỉ lệ 52% mà đến 54,6% hàng nhập cảng vào năm 1955 là để đổi lấy sản phẩm tiêu dùng mà miền Bắc chưa sản xuất được . Nhưng sang đến năm 1957, hàng nhập cảng đã tụt xuống còn 32% vào năm 1957. (Trích VNA reports, 18 and 21 June 1956, BBC 572, 26 June 1956, p.25)
Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền mới đã không làm được những điều đáng lẽ cần phải làm. Hoặc làm chưa đến nơi, đến chốn. Ông Dương Quang Đông, một đảng viên ở miền Nam đã có lúc phải thốt ra như thế này trên báo Nhân Dân:
“Từ mười một năm nay, đảng tỏ ra không có khả năng cung cấp cho dân một hạt gạo nào, một miếng thịt nào, một giọt nước mắm nào và cũng không có khả năng ỗn định về giá cả. Dân khổ quá. Biện pháp tốt nhất là đảng nên để cho dân được tự do sản xuất, tự do sinh sống, tự do học hành.”
(Trích Việt Nam 1920-1945, Cách Mạng và phản cách mạng thời đô hộ thuộc địa, tác giả Ngô Văn, trang 367)
Xin trích dẫn nhận xét của Ken Post trong chương Crisis in the north về tình trạng miền Bắc vào giữa năm 1954:
“By mid-1954 the economy of Bac Bo and northern Trung Bo had suffered a serious decline in productive forces as a direct or indirect effect of the fighting. An area of riceland estimated at between 138.800 and 143.000 hectares, some 7 per cent total, had gone out of cultivation, mostly in so-called “white zones” where the French army had followed a shoot-on-sight policy. On the surface, this was not a large proportion, but it must be remembered that what had now become the” northern regroupment zone” of the new Viet Nam had always been a rice-deficit area in the colonial period, needing to import annually from Cochichina. Hence, any decline in production whilst the new” southern regroupment zone” was politically unstable and under continuing French and increasing US influence was a serious threat.”
(Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, volume 1, Kent post, trang 262)
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong dịp phát biểu tại quốc hội, tháng 3. 1955 cho rằng: Hòa bình đã trở lại, cần có lãnh đạo tập trung, thống nhất và mạnh… để đáp ứng được những nhu cầu của chính phủ. Cần tăng gấp 80% viên chức nhà nước trong 3 năm.
Khi người Pháp ra đi, còn để lại 7000 viên chức trong số 20.000 người từng làm việc trong chính phủ Liên Hiệp Pháp. Những người ở lại làm việc theo cung cách cũ, thiếu nhiệt tình và tinh thần hy sinh.
Về lương bổng của những viên chức từng làm cho người Pháp, để lưu dụng họ, chính quyền mới cho họ vẫn giữ bậc lương cũ thời Pháp. Gọi là bậc “lương lưu dung”.Trong khi những người từng đi chiến đấu trở về thi thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn nên ăn theo lương” kháng chiến”. Trái khoáy là lương một ông thư ký thời Pháp cao gấp đôi lương một ông Chánh án của chính quyền mới.
Vào khoảng cuối năm 1960, các viên chức ngưới Pháp mới tự nguyện xin rút lương và ăn theo lương như các cán bộ chính quyền mới.
Phải chiều lòng viên chức trong chính quyền người Pháp vì thiếu chuyên viên. Cụ thể như ở mỏ than Hòn Gai khi được chuyển giao cho chính quyền mới. Dưới thời quản lý của người Pháp thì có 21 kỹ sư và 62 chuyên viên, sau này chỉ vỏn vẹn còn 30 chuyên viên. Nhà máy dệt Nam Định đã không còn một kỹ sư nào ở lại. Để bù khuyết khoảng trống đó, từ 1955-1960 có sự chi viện lệ thuộc vào 3600 chuyên viên người Tầu, 1400 Liên Xô và 1000 người của các Quốc gia Đông Âu.
Cũng vậy, trong ngành giáo dục, các giáo chức trước đây dạy ở các trường công và trường tư vẫn được lưu dụng. Các trường như Chu Văn An, Nguyễn Trãi vẫn như cũ. Ngay các trường tư như trường Dũng Lạc, trường tư của Thiên Chúa giáo, nằm bênh cạnh nhà thờ Lớn Hà Nội vẫn được tiếp tục mở cửa. Đặc biệt không ngờ là trường Albert Sarrault của Tây cũng vẫn còn, vẫn dạy tiếng Pháp, chỉ có thay đổi là hiệu trưởng là người Việt.
Trong khi đó, ngân sách từ các năm 1955 đến 1957 đã dành 26.5% cho Quốc Phòng, Xây dựng 24.4 , hành chánh 14.5%. Cộng chung ba bộ này chiếm 65%. Phần còn lại dành cho kỹ nghệ có 2.7%, y tế 1.9% và giáo dục có 2.9%. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 2, Viet Nam Divided, Ken Post, trang 52-55)
Với một ngân sách lệch như thế, chú trọng quá nhiều vào Quốc Phòng, đất nước làm sao khá lên được? Một ngân sách nghiêng về Quốc Phòng như thế, bởi vì kể từ năm 1958, đảng Lao động Việt Nam nhằm hai muc tiêu chiến đấu: chiến đấu xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến đấu hoàn thành cuộc gìải phóng miền Nam.
Sau này thì không phải chỉ có hơn 3000 chuyên viên Trung Quốc nữa.
Biên giới phía Bắc được mở rộng để đón tiếp hàng nhập cảng từ Trung Quốc như một “con đường tơ luạ mới của thế kỷ này” cộng với đường biên giới mới của bản đồ được vẽ lại. Con đường tơ lụa nay được ủi phẳng mở đường cho xa lộ kéo dài từ Thái Nguyên, Việt Trì đi thẳng tới Hải Phòng, Hà Nội. Nhất là Khu kỹ nghệ Việt Trì (Viet Tri complex) trong kế hoạch 3 năm mà phần lớn vốn liếng do Trung Cộng đầu tư vào như đập thủy điện, nhà máy giấy, nhà máy mỳ chính, nhà máy thuốc trừ sâu, nhà máy cơ khí, nhà máy đường.Từ đó kích cầu các cơ xưởng kỹ nghệ địa phương, với 854 cơ sở, với đủ các nhà máy cùng với trang bị kỹ thuật, vốn liếng xuất phát từ Trung Quốc trải dài xuống các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn v.v… Người Pháp vừa xuống tàu về nước thì lại có người láng giềng đến thế chỗ. Bài hát 1000 năm đô hộ Tàu nay phải đổi lời lại như thế nào cho thích hợp? (Xem thêm Mặt Thật, Thành Tín, trang 15).
Tính chung đến thámg 7, 1955, nước anh em Trung Cộng đã giúp đỡ chính quyền mới về thực phẩm và trang thiết bị trị giá 325 triệu Mỹ Kim. Và Liên Xô là 150 triệu Mỹ kim. Không kể một vài nước anh em nhỏ khác như Tiệp Khắc, Đông Đức. (Trích Võ Nhân Trị, Croissance économique, 1967, trang 262). Sau này, trong việc quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”, Đặng Tiểu Bình mở chiến dịch vì cho rằng Việt Nam đã “vô ơn trước sự giúp đỡ trước đây”. Dĩ nhiên, mọi người hiểu rằng đây chỉ là một cái cớ.
Đã thế, sau chiến tranh và hòa bình đã trở lại, nhưng những viên chức cán bộ trong chính quyền mới đổ đốn ra làm việc còn nặng tính cách quan liêu, cửa quyền, bàn giấy. Họ chẳng khác gì những cán bộ trong chính quyền Xô Viết vào những năm 1925-1930. (Xem thêm Cuộc Cách mạng bị phản bội, L.Trôt-Ski, tủ sách nghiên cứu 1993, trang 12)
Đó là một thứ lạm phát chữ nghĩa do tuyên truyền cộng với lạm phát quyền lực do một thiểu số nắm giữ, lạm phát kinh tế do tham nhũng.
Tất cả các thứ lạm phát đó là một thứ thuế trực tiếp đánh trên đầu trên cổ giai cấp giới lao động và dân nghèo
Như Chế Lan Viên cuối đời thú nhận rằng, ông vẫn thường chỉ ăn bánh vẽ và tiếp tực ăn như thế. Bà Vũ Thị Thường, vợ nhà văn đã công bố bài thơ Bánh vẽ của ông có những câu như sau:
Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối.
Hà Nội với nạn nhà cửa chật hẹp
Ở Hà Nội, sau 1954, ăn đã là một vấn đề nan giải, nhưng ở còn khổ bội phần. Hà Nội thời trước 1954 chỉ có hơn nửa triệu dân. Nhưng Hà Nội vẫn được coi là quá chật chội, không có chỗ ở. Những người làm phu lao động, buôn thúng bán mẹt không thể tìm một chỗ nào để trú ngụ. Đó là những người dân thường như bán hàng rong, những người buôn thúng bán mẹt, những công nhân làm vệ sinh, đổ thùng, quét đường, hốt rác. Hầu hết họ đều ở ngoại ô Hà Nội. Những nhà vườn trồng rau, trồng hoa cung cấp cho Hà Nội cũng tập trung ở khu Ngọc Hà.
Họ phải ra ngoài thành phố về phía Bắc, phía bên kia cầu Paul Doumer hay xuống phía Gò Đống đa, đường đi về Hà Đôngvv. Chỉ trừ một vài thành phần du thủ, du thực bám lấy Hà Nội bằng cách lấy các gầm cầu làm chỗ ở qua đêm.
Sáng họ vào Hà Nội, tối họ đi ra. Có những buổi sáng tinh mơ, phu đổ thùng từng đoàn nối đuôi nhau, gánh kĩu kịt những gánh phân đem theo những xú uế của Hà Nội ra ngoài và ngược chiều, những đoàn người đem vào những tốt tươi, thơm tho của đất trời như rau tươi, hoa quả. Nhất là hoa đủ loại như thể đó là lẽ tuần hoàn của trời đất.
Tôi nghĩ rằng sau 1954, sẽ không còn được trông thấy những cảnh tượng như thế nữa.
Cho nên, người Hà Nội thường là thứ “nguyên gốc”, không pha trộn. Phần đông thuộc thành phần tiểu tư sản, có ăn học. Tất cả các gia đình buôn bán của các phố Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Ngang đều ít nhiều có gốc gác, lập nghiệp lâu đời. Sau này Bà Susan Bayly có viết cuốn Asian Voices in a Post- Colonial Age, trong đó bà đi tìm lại những người Hà Nội trí thức, có truyền thống gia đình, có thể từ thời 1946-1954.
Và những người Hà Nội có một nếp sống tiểu tư sản thành thị thông qua tiếng nói và cách ăn mặc. Tiếng nói của dân Hà Nội không pha trộn, khác biệt với dân Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng và cũng khác biệt ngăn hẳn với dân ở các tỉnh miền xuôi như Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình.
Tiếng nói người Hà Nội thanh lịch trong giọng nói và kiểu cách trong trao cách trao đổi, đối đáp, thưa gửi. Nhưng khéo quá đôi khi không tránh được tác phong phong kiến, kiêu kỳ, phỉnh phờ, không thật lòng giả dối, nịnh bợ cũng có. Nhất là những tiếng danh xưng vừa có ý trân trọng người đối thoại vừa gián tiếp tự đề cao chính mình. Chẳng hạn, khi nào thì gọi là Quan đốc? cụ đốc, cụ lớn, cậu đốc, anh đốc, chú đốc cháu, bác đốc cháu hay bác đốc nhà tôi? Cả một vấn đề, tùy theo tình huống mà có thể trở thành phức tạp, tế nhị, mát mày mát mặt, nhạy cảm, phiền toái, cầu kỳ, rắc rối, bi kịch, giận hờn, thù oán.
Nhưng đó là nếp sống văn hoá nói Hà Nội. Như một cơn bão nhỏ. Sau 1954, những chữ đó và hằng trăm chữ khác tự động biến mất.
Chữ nghĩa có cái thời của nó, thời để sống và thời để chết.
Cả một nếp sống văn hóa tiêu biểu của Hà Nội không cánh mà bay đi và không bao giờ còn như thế nữa.
Cũng kể từ 1954, một số không nhỏ, khoảng 200.000 người Hà Nội đã rời bỏ thành phố di cư vào miền Nam. Chỗ trống ấy có người lấp ngay. Phần là dân tập kết trong Nam ra. Phần bộ đội và cán bộ vào thành. Phần này là đông nhất. Trong đó không thiếu những người gốc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh nay là cán bộ kéo vào biến tiếng nói của người Hà Nội thành ọ ẹ. Phần nữa là dân chúng bỏ nhà quê lên tỉnh.
Cho nên, nay mà nói đến dân Hà Nội chính cống, đi tìm một người nói tiếng Hà Nội gốc thì quả thật không dễ, vì họ chỉ chiếm hơn 10% dân số thủ đô. Tôi đã ra Hà Nội và chỉ có thể gặp lại những người họ hàng, bà con mới còn giữ được tiếng nói của người Hà Nội xưa. Đặc biệt là tiếng nói đó không the thé, eo éo như bây giờ.
Cho dù muốn đi tìm lại những ngưòi Hà Nội cũ đi nữa, cho dù tìm được. Họ cũng không còn là họ nữa.
Dân số Hà Nội đã tăng 3, 4 lần sau 1954. Diện tích ở của mỗi đầu người tính ra được 4, 5 mét vuông. Những căn nhà có ngõ dài hun hút, sâu chừng 4,5 chục mét là thường, ở trong các khu phố cổ là vô cùng chật chội, vì một nhà nay phải chứa thêm 4,5 hộ, có khi đến 10 hộ gia đình.
Nếu các gánh hàng rong là mặt ngoài của Hà Nội thì Ngõ là mặt trong của Hà Nội.
Ở đó có những cảnh đời tăm tối tranh nhau, chen chúc nhau từng phân tấc, từng gáo nước, dòm ngó, kèn cựa từng ly từng tý một.
Tôi không nói sai, nói thêm cho người Hà Nội. Quả tình thật là như thế. Đến như có thể nói đến một thứ sinh hoạt văn hoá Ngõ. Người ta phải dựa vào nhau để mà sống, phải nhịn nhục nhau mà sống, phải chấp nhận nhau để mà sống hết năm này qua năm khác. Có khi từ bé tới lớn, tới già. Đó là những nỗi khổ ở đời, nỗi khổ sinh ra làm người, bên cạnh cái khổ túng thiếu, nghèo đói.
Trường hợp ông Nguyễn Đăng Mạnh sau này được xum họp ở Hà Nội. Hãy nghe ông tả oán:
“Năm 1971, vợ chồng tôi mới được phân phối cho một gian nhà lá, nền đất trong một dãy nhà gọi là K2. Bốn người, hai vợ chồng, hai đứa con, có khi lại thêm bà Nhạc đến chơi, ở chen chúc trên mười mấy mét vuông. Mùa hè nóng quá, có khi phải kê giường ngủ ngoài hè. Sách vở đặt trên những xích đông làm bằng tre nứa”.
(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 53)
Đó là hỏa ngục trần gian thu hẹp lại.
Nhưng nếu người Hà Nội bây giờ chỉ chịu khó đi dọc con đường Hoàng Diệu sẽ nhìn thấy những căn biệt thự kín cổng cao tường dành cho các quan cán bộ cao cấp.
Nhìn những căn biệt thự uy nghi và đồ sộ ấy, chúng ta sẽ thấy rằng, sẽ không bao giờ có Thiên đường Xã Hội chủ nghĩa ở đời này.
“Các nhà chính trị ở Hà Nội thường nói đến đồng cam, đồng khổ giữa đồng chí và đồng bào, thế nhưng trong vấn đề nhà ở làm sao có thể coi là đồng cam, đồng khổ giữa một ông lớn ở nhà cao cửa rộng hàng 100, 200 mét vuông với một viên chức cán bộ trung cấp, một đại úy hay thiếu tá ở một buồng con 9 thước vuông cùng vợ và 2 hoặc ba con”… Có vị tướng có đến hai ba nhà, giữ cho vợ và con, sang tên một cách mờ ám để chiếm nhà của nhà nước…Cán bộ cao cấp có mức sống cao vượt lên cán bộ trung cấp, cho nên trên thực tế, tỉ lệ chênh lệch 1/7 trở thành 1/50, 1/100 hoặc hơn rất nhiều nữa Có lúc ông viết 1/1000… Có khi họ phải chờ đợi hàng chục năm mới được phân phối một phòng rộng hơn 4 mét vuông, 6 mét vuông sau khi đẻ 2, 3 con…”
Hệ lụy của chính sách Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc tháng 5, 1955
Bài viết này không nhẳm trình bày đầy đủ về chính sách cải cách ruộng đất, nhưng chỉ đưa ra một vài nhận xét tiêu biểu về sự sai lầm nghiêm trọng của chính sách này về mặt thực tế, pháp lý vv.
Tiêu biểu sai lầm nhất của chính sách CCRĐ là đã không tìm ra được kẻ thù đích thực là: Bọn địa chủ.
Ai là địa chủ?
Chính quyền cộng sản lúc bấy giờ chia ra 6 loại địa chủ: Địa chủ phản bội như phục vụ thực dân Pháp, địa chủ phản động tham gia đảng phái như Quốc Dân Đàng, địa chủ gian ác hà hiếp dân lao động, địa chủ kháng chiến có công với kháng chiến, địa chủ thường có từ 3 đến 5 mẫu ta, không giàu và địa chủ khác là các ông đồ nho có chút dư giả. (Trích Nông dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 19)
Phân chia ra như vậy, nhưng lúc thi hành thì lại khác.
Nạn nhân đầu tiên: Bà Nguyễn Thị Năm
Ngay đợt đầu cải cách diễn ra ở Thái Nguyên, đã có việc đánh nhầm đối tượng là bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ có đồn điền, có công với kháng chiến, đã từng nuôi đưỡng chứa chấp những người như Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt. Bà lại có hai con trai tham gia kháng chiến từ đầu, có công với kháng chiến trong việc chống Pháp. Thí điếm cải cách ruộng đất đầu tiên, Pilot land reform, diễn ra ở 6 làng thuộc tỉnh Thái Nguyên từ tháng 12, 1953 đến tháng 3, 1954, Bao gồm 10.792 người trong đó có nạn nhân là bà Năm.
Trong một Hồi ký rất nên đọc, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên phó thủ tướng, ông Đoàn Duy Thành viết về vụ bắn bà Năm như sau:
“Đánh một địa chủ ủng hộ kháng chiến, một địa chủ hiến ruộng, địa chủ kiêm công thuơng là ba cái sai lầm. Bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam. Sau này được biết, khi chuẩn bị bắn, bác Hồ can thiệp và nói đại ý: Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao? Nhưng cán bộ thừa hành bá cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là:” Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm”
Theo Thành Tín, theo luận điệu của đội CCRĐ là:
“Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối, nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ Cách Mạng để phá hoại. Hồ Chí Minh sau khi nghe Hoàng Quốc Việt chạy về bá cáo vụ bà Nguyễn Thị Năm nói: Không ổn, không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ sung vào một phụ nữ và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính ủy Trung đoàn quân đội nhân dân đang tại chức”.
Thế nhưng sau đó, không có gì động đậy cả, ông Hồ giữ im lặng, không can thiệp. (Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 38-39) Hồ Chí Minh biết việc đấu tố và tử hình bà Năm, nhưng ông đã không can thiệp gì cả. Theo nhà văn Vũ Thư Hiên trả lời một câu hỏi về trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong chính sách này, ông trả lời: “Hồ Chí Minh phải là người trách nhiệm chính vì ông đã ký sắc lệnh Cải Cách ruộng đất, dù người thực hiện là ông Trường Chinh”.
Theo ông Hoàng Tùng xác nhận, vụ án Bà Nguyễn Thị Năm đã được bộ chính trị họp và quyết định. Riêng ông Nguyễn Minh Cần, Phó chủ tịch Hà Nội than:
“Những người đứng đầu chính phủ đã từng được bà che dấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm chủ tịch nước, Tổng Bí Thư. Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy. Phát súng đầu tiên của CCRĐ đó tự nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản. Nó báo trước những tai họa không lường cho dân tộc”.
(Trích Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác nửa thế kỷ trước.)
Tổng kết các đợt CCRĐ theo Hồ Việt Thắng
Hồ Việt Thắng là cánh tay mặt của Trường Chinh, được cho đi học ở Trung Cộng về CCRĐ, về phương pháp đấu tố để đem về áp dụng tại Việt Nam. Có tất cả 5 đợt Cải cách và một đợt thí điểm lúc ban đầu ở Thái Nguyên.
Đợt thí điểm tiến hành trong: 6 xã và 10.792 nhân khẩu
Đợt 1: 53 xã và 109.675 nhân khẩu
Đợt 2: 210 xã và 480.563 nhân khẩu
Đợt 3: 466 xã và 1.207.294 nhân khẩu
Đợt 4: 859 xã và 2.564.105 nhân khẩu
Đợt 5: 1732 xã và 6.140.127 nhân khẩu
(Trích Nhận xét về CCRĐ, đợt 5, Hồ Việt Thắng, Talawas,30/09/2005)
Theo bảng tổng kết trên, các đợt CCRĐ đã thực hiện trên 3267 xã trên toàn miền Bắc và ảnh hưởng tới 9.512.556 người. Tức 2/3 dân số miền Bắc. Và theo Hồ Việt Thắng, có hơn 6 triệu nông dân lao động miền Bắc đã thoát khỏi cảnh lầm than, giành lại được ruộng, để vươn mình và đã thật sự làm chủ nông thôn.
Từ nay, quyền chiếm hữu ruộng đất phong kiến bị xóa bỏ vĩnh viễn.
Cũng kể từ nay, mỗi cố nông có 4 sào ruộng, mỗi bần có 4 sào 2 thưóc và mỗi trung nông có 4 sào 12 thước. (Ở miền Nam, mỗi đồng bào di cư ở vùng Cái Sắn được cấp 3000 mét vuông, tương đương 3 mẫu tây)
Và cũng theo Hồ Việt Thắng viết:
“Những bần cố nông trước đây không tấc đất cắm dùi hoặc thiếu ruộng, quanh năm lĩnh canh, cày thuê cuốc mướn, sống lam lũ tối tăm, luôn luôn bị đói rét, nợ nần, roi vọt và chết chóc đe dọa, ngày nay đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân chính đáng của đồng ruộng”.
Kể từ nay, họ bước vào cuộc đời mới.
Những sai lầm trong CCRĐ
Chúng ta không thể căn cứ trên tài liệu chính thức của cộng sản để nêu ra được những sai lầm trong CCRĐ. Chằng hạn, tài liệu của Trường Chinh với nhan đề: Sửa sai và tiến lên. Hay là những bài tham luận viết trên báo Quân Đội Nhân dân: “Chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại” Hay bài viết của Trung Anh: Suy nghĩ về vấn đề viết về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, báo Văn Nghệ, 16/11/1956, Lại Nguyên Ân biên soạn)
Phải chịu khó lọc để tìm ra được đôi chút sự thật như các bài viết của Trần Huy Liệu: Xét lại Hồ sơ của giai cấp địa chủ. Hay Thư của Đặng Thái Mai gửi Trường Chinh ngày 19/06/1953
Sai lầm thứ nhất: Về diện tích đất đai
Miền Bắc rộng có 63.000 dậm vuông mà đến 2/3 là núi rừng, phần còn lại là miền Trung du và châu thổ sông Hồng Hà mà trên 90% làm nông nghiệp. Có nghĩa là khoảng 13,5 triệu dân làm nghề nông.
Diện tích đất đai miền Bắc là quá hẹp, thế mà trong đó phân nửa thuộc ruộng công thổ và ruộng của giai cấp Trung nông (Trung nông không là đối tượng truy sát của Cải cách ruộng đất) Phân nửa diện tích còn lại, địa chủ chiếm bao nhiêu diện tích đất? Và trung bình mỗi điạ chủ có bao nhiêu mẫu ruộng để bị đưa ra đấu tố?
Tính số ruộng ở miền Bắc được chính người cộng sản phân phối theo tỉ lệ như sau: Thực dân chiếm 1%. Tôn giáo chiếm 1,5%, Công điền, công thổ chiếm 25%, địa chủ chiếm 24.5 %, Phú nông 7.1%, Trung nông chiếm 29%, Bần nông 10%, Cố nông1%, những người khác 0,8%. (Trích Nông dân miền Bắc, Nguyễn Văn Canh, trang 19)
Như thế, cố nông (nghèo, không ruộng, không nhà cửa, đi làm thuê, bị địa chủ bóc lột) và bần nông (khá hơn, có thể có nhà cửa, có vài sào ruộng, nghèo, phải đi cấy rẽ hoặc cấy thuê cho địa chủ) chiếm 61% dân số, nhưng tỉ lệ chiếm hữu đất đai chỉ là 11.1% trong khi đó 5% phú nông (Có từ vài ba mẫu ruộng, có trâu cầy, nhưng mỗi mùa có thể phải thuê mướn vài người đế giúp cấy, gặt) và địa chủ. (Có nhiều ruộng hơn phú nông, không tự làm lấy đuợc, phải thuê người, hay cho thuê ruộng, cho vay tiền hay thóc, sống bằng sức lao động của người khác) thì chiếm 24.5%%.
Số ruộng của phú nông và địa chủ cộng lại mới đạt 31%. Số ruộng còn lại hơn 50% là thuộc đất công điền và Trung nông. (Trung nông là những người có từ 3 mẫu ta trở xuống, tự canh tác lấy và không thuê mướn người nên không không bóc lột ai cả) Số ruộng hơn phân nửa là ruộng công điền và trung nông, có nghĩa diện tích ruộng này không do địa chủ bóc lột.
Số ruộng còn lại do địa chủ nắm giữ là 24%. Nhưng nếu căn cứ vào thành phần địa chủ ác ôn mới là đối tượng bị đấu tố? Vậy thì số ruộng lấy lại từ địa chủ loại ác ôn là bao nhiêu?
Căn cứ theo bảng thống kê của Hồ Việt Thắng thí mỗi bần cố nông nay được làm chủ vỏn vẹn có 4 sào ruộng. 4 sào ruộng này có đủ để nuôi sống một gia đình nông dân không? Có đáng làm cuộc CCRĐ với đấu tố không?
Sai lầm thứ hai: Quá tả khuynh trong việc đánh địa chủ
Ngay từ tháng 3, 1954, Trần Huy Liệu đã viết một bài về: Xét lại “Hồ sơ” của giai cấp địa chủ gửi cho Hoàng Quốc Việt, một nhân vật chủ chốt trong CCRĐ sau Trường Chinh. Trần Huy Liệu cho rằng khác với Trung Quốc, địa chủ của ta đa số là trung và bậc tiểu mà phần đông lại là thành phần yêu nước, vì vậy cần có sách lược đối xử đúng mức.
Thật vậy, ruộng ít mà đa số ruộng thuộc đất công điền và thuộc trung nông. Tự nhiên, ruộng ít thì địa chủ phải ít.
Trong khi đó, các đội cải cách được lệnh truy lùng bọn địa chủ trong các làng phải đạt chỉ tiêu là 5% địa chủ. Không có thì phảì đi “bắt rễ”, phải tự “đi tìm nghèo, hỏi khổ” cho bằng được, phải đôn, phải kích cả những thành phần phú nông đến trung nông và họ trở thành nạn nhân. Ngay cả trường hợp họ đã chết thì vợ con vẫn bị đưa ra xét sử trước tòa án nhân dân và tịch thu tài sản.
Trong Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh đưa ra cùng nhận xét: “Bắt oan, giết oan hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao địa chủ lại nhiều thế? 5%? Làm sao mà Quốc Dân Đảng lại có ở khắp mọi nơi. Đúng là rập khuôn theo Trung Quốc một cách cực kỳ ngu xuẩn”. (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)
Đó là trường hợp xã Sơn Trung, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây, một xã có chừng 1500 hộ gia đình với 7000 dân. Xã này có 20 gia đình bị quy vào thành phần địa chủ, cường hào, gian ác (tử hình) và 30 gia đình khác bị tù, 1955. 20 gia đình trong số 1500 gia đình thì chưa đủ tiêu chuẩn 5%. Vì thế, sang 1956, các đội được lệnh phải kích một số gia đình phú nông lên thành địa chủ để đạt được 5% địa chủ (Trích Nông Dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 44).
Cũng lại theo hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh:
“Nhưng riêng xã tôi thì tìm mãi không ra thằng nào gian ác đáng xử bắn. Đoàn ủy liền cử người về chấn chỉnh. Tôi nhớ anh cán bộ đoàn tập hợp toàn đội lại ở một chái nhà dân quanh một cáí cối giã gạo. Anh ta xỉ vả chúng tôi một trận thậm tệ:” Không bắn thằng nào thì quần chúng còn bị nó khống chế, đến bao giờ mới ngóc đầu lên được. Lập trường giai cấp để đâu? Hữu khuynh nghiêm trọng. Đảng nuôi cho các anh ăn để ngồi chơi à? Phải kiểm điểm nghiêm khắc, rồi đi sâu, đi sát, tìm thằng đầu xỏ để bắn.Thế là lãnh đạo đội đêm ngày tìm ra thằng đầu xỏ phản động. Họ nghĩ đến một người tên là Cớt, bí thư chi bộ đảng, và gợi ý mớm lời cho cốt cán phát hiện ra những hoạt động của bọn Quốc Dân Đảng đội lốt cộng sản. Lập tức hồ sơ tội trạng của Cớt ngày càng dày lên, và bí thư chi bộ cộng sản thành bí thư chi bộ Quốc dân đảng. Dĩ nhiên là Cớt bị bắt giam và không tránh khỏi sẽ bị xử bắn. Nhưng phúc đời cho Cớt, cuối đợt cải cách có lệnh sửa sai. Các đội được lệnh triệu tập để nghe ông Hoàng Quốc Việt về nói chuyện. Tất cả các tù nhân ở các trại giam được thả ra hết…
(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)
Đây là sự bắt chước thô bạo và thiển cậnTrung Cộng. Các địa chủ ở Trung Quốc không phải chỉ có vài chục mẫu ruộng mà có từ vài trăm lên đến vài ngàn mẫu ruộng. Dưới tay họ, có hàng ngàn nông dân làm quần quật, bị bóc lột, bị đối xử như người nô lệ. Đó là một chế độ phong kiến, địa chủ đủ tầm cỡ, đã “chín mùi” để đáng làm một Cuộc Cách mạng Cải cách ruộng đất.
Ông Nguyễn Đăng Mạnh cũng cùng nhận xét như sau:
“Cải cách ruộng đất đúng là một trường hợp điển hình thô bỉ nhất của vụ cưỡng hiếp của Tàu đối với Việt Nam về chính trị và văn hóa.”
(Trích Hồi ký của Nguyẽn Đăng Mạnh, trang 42). Còn ở Việt Nam, một gia đình trung lưu có từ 10 đến 20, 30 chục mẫu ruộng thường tự canh tác, hoặc thuê mướn người quen, người cùng làng hay họ hàng. Họ tương trợ, đùm bọc nhau mà làm, có ơn nghĩa, có tình xóm làng hoặc tình nghĩa họ hàng.
Cái tương quan thuê mướn đó không thể máy móc xếp vào loại tương quan bóc lột được. Đôi khi còn mang ân nghĩa suốt đời không chả được.
Cho nên không thể mang áp đặt chế độ phong kiến, địa chủ bóc lột bên Trung Quốc áp dụng vào Việt Nam được. Chính vì thế, các đội cải cách chẳng những gặp khó khăn trong việc truy lùng địa chủ, nó còn gặp trở ngại là làm thế nào thuyết phục những nạn nhân chịu đứng ra “đấu tố” những người mà họ coi là ân nhân của mình.
Việc đấu tố trở thành màn kịch giả dối,oan uổng, ép buộc vì nhiều người “chưa đủ tiêu chuẩn” là địa chủ, hay chưa xứng đáng là địa chủ. Đấu tố như thế thí phải bịa đặt, khai gian, bịa ra nhiều điều không có thật nên phải chuẩn bị trước, phải học thuộc lòng, phải tập dượt trước.
Những người được cử ra đấu tố nạn nhân, chính họ lại trở thành nạn nhân của một màn lừa bịp trong đó con nuôi, con dâu, chú cháu, vợ lẽ muối mặt tố cáo người thân thuộc bằng những lời chứng bịa đặt.
Và trích dẫn một số nhận định sau đây đủ thấy tính tàn ác của Hồ Chí Minh như thế nào, ông Hồ tuyên bố:”Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, trang 509)
Ông Nguyễn Văn Trấn, đại biểu Quốc Hội Khóa 1 giải thích “phóng tay” của Hồ Chí Minh là cứ làm mạnh thả cửa. Ông Nguyễn Minh Cần giải thích “phóng tay” là: làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thuơng xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ”.
Một nhận xét nữa của Hồ Chí Minh về CCRĐ như sau: Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giẫy lên trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, trang, 358, Trích lại trong Nguyễn Quang Duy trong bài: Vai trò của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất, Talawas 25.1.2007)
Hay ông Hồ so sánh như thế này: Khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tý và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được,” Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng:” Trời ơi, Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc Hội, Văn Nghệ, USA, 1997)
Trong phim: Chúng tôi muốn sống, sau 1954, được chiếu ở miền Nam, đã gây nên những xúc động mạnh mẻ trong dân chúng về cảnh dã man của việc đấu tố ở miền Bắc. Cuốn phim diễn lại cái cảnh tượng gia đình địa chủ Nguyễn Văn Long đã có công ủng hộ kháng chiến, con trai là đại đội trưởng Vinh lập nhiều thành tích chống Pháp. Họ vẫn bị lôi ra đấu tố. Những kẻ bị ép buộc ra đấu tố ông bà Long là anh Cu Tý, chăn trâu, anh con nuôi, chị láng giềng. Ngay cả Lan, người yêu của Vinh cũng buộc ra đấu tố bố mẹ chồng. Kết quả là ông bà Nguyễn Văn Long bị kết án tử hình. Chính sách này gây ra những hậu quả tai hại là phá vỡ toàn bộ tương quan xã hội và gia đình. Tình nghĩa máu mù, ruột thịt, bà con họ hàng, tình nghĩa xóm làng không còn nữa.
Mỗi người trở thành kẻ thù của mọi người. Đó là một xã hội băng hoại và tan rã, bật gốc rễ và mất hết các giá trị cổ truyền, truyền thống trong nếp sống, nếp nghĩ ở đời.
Cuối cùng thì người nông dân vẫn là kẻ chịu thiệt thòi nhất như nhận xét của ông giáo sư Tương Lai viết: ”Nông dân Việt Nam là người chịu trên vai gánh nặng nhất của đất nước. Nhưng về sau, bản thân người nông dân lại phải chịu đựng rất nhiều thiệt thòi và ông đúc kết ra những cái thiệt thòi nhất của người nông dân là: Cống hiến nhiều nhất, hy sinh lớn nhất là thứ hai. Hưởng thụ ít nhất là thứ ba. Thứ tư là họ được giúp kém nhất. Thứ năm là họ bị đè nén thảm nhất. Thứ sáu là họ bị tước đoạt nặng nhất. Thứ bảy, họ cũng là người cam chịu nhất lâu dài nhất. Nhưng thứ tám, họ là người tha thứ cao cả nhất.”
Sau hơn 60 năm, sau cải cách ruộng đất và người cày có ruộng, xem ra Việt Nam vẫn cần tìm ra câu trả lời cho những vấn đề công bằng xã hội ở nông thôn mà quan trọng vẫn là vấn đề ruộng đất. Đất nông nghiệp nay được chuyển thành đất xây cất đô thị và công nghiệp. Người ta lấy hằng trăm hecta ruộng của nông dân và không có đến bù xứng đáng.
Bất công vẫn hoàn bất công. Người cộng sản có thể tự hào về nhiều thứ lắm. Nhưng chỉ có một điều họ không thể tự hào được là người nông dân từ hơn nửa thế kỷ này, chưa có một ngày mà họ cảm thấy mình hạnh phúc. Đến năm 1860, còn ăn độn 20%. Nhưng sang đến năm 1966, đã phải ăn độn tới 60%.
Sau những sai lầm về cải cách ruộng đất đi vào đợt 4 thì đảng quyết định sửa sai xem ra đã trể, vì đã có một số nạn nhận chết qua các các đợt cải cách. Đảng cho lệnh ngưng lại.
Nhưng chỉ không hiểu sao thời ấy cả nước từ trên xuống dưới lại ngu xuẩn đến thế?
Số nạn nhân bị giết trong cải cách ruộng đất
Thật ra không có cách nào để tìm ra con số nạn nhân đã chết trong CCRĐ. Tôi không tìm ra được số liệu đích xác về số người chết là bao nhiêu? Nhưng điều chắc chắn là tôi sẽ không bao giờ tìm ra được.
Cùng lắm, nếu chúng ta căn cứ trên tỉ lệ 5% mà chính quyền cộng sản yêu cầu, rồi căn cứ vào số xã đã được các đội cải cách đến bắt rễ và phát hiện các địa chủ. Con số khiêm tốn nhất theo thống kê nội bộ mà ông Bùi Tín tiết lộ cho biết thì có:
* Số địa chủ thường: 82.777, số bị quy sai là 51.480 người. Tỉ lệ sai là: 62%
* Số địa chủ kháng chiến: 586. Số quy sai là: 290, tỉ lệ sai là: 49%
* Số địa chủ cường hào ác bá là: 26.453. Số bị quy sai là: 20.493, tỷ lệ sai: 77%.
Như vậy là có hơn 80 ngàn gia đình địa chủ bị bắt bớ hành hạ. Mỗi gia đình lại có trung bình 4,5 người liên quan nên số bị nạn lên đến trên 400 ngàn người. Họ mất nhà, mất tiền của… một số tự sát… Nếu còn sống cũng đói khổ, ốm đau, suy kiệt. Nhiều gia đình bị tan vỡ, con cái thất học, bơ vơ. Chưa kể 84.000 đảng viên bị xử trí, bị tù, bị tra tấn. (Trích Bùi Tín, Nhìn lại cuộc cải cách ruộng đất, Talawas1.11.2006).
Món nợ này đảng cộng sản trả bao giờ cho hết?
Và còn phải nói tới mối liên hệ gia đình như vợ con, anh em bà con, dòng họ. Tất cả những người còn sống có mối liên hệ huyết thống với tên địa chủ bị loại trừ khỏi làng xã. Họ không được học hành, bi khinh miệt, tẩy chay trong việc lấy vợ, lấy chồng. Biết bao nỗi khổ và nỗi nhục chồng chất đến đời con cháu. Như lời nhận định của Hồ Việt Thắng:” Đối với các chính sách của Đảng và chính phủ, vì không phổ biến sâu rộng trong nhân dân và địch cố xuyên tạc phá hoại, nên quần chúng cũng có nhiều thắc mắc. Đồng bào công giáo thì lo mất cha, mất đạo. Người trước đi làm ngụy quân, nguỵ quyền hoặc có tên trong các tổ chức khác của địch, thì sợ bị trừng trị. Nhà có người đi Nam sợ “bị liên lụy”. Rất nhiều người sợ bị liên quan với địa chủ, đế quyốc và phản động”. (Trích Hồ Việt Thắng, Nhận xét vế cải cách ruộng đất, đợt 5, trích Talawas,30/09/2005)
Nạn nhân “bất đắc dĩ” của CCRĐ
Anh “Nhân” hay anh “Thận”, bí danh của Trường Chinh là người mông muội, sùng bái “Mặt trời Phương Đông”, đọc thuộc lòng tư tưởng Tri Cửu Chiến hay Tân Dân Chủ Luận của Tàu đến mê muội quá mức. Ông là người đã đứng ra phát động chiến dịch cải cách ruộng đất vào tháng 11, 1953 với phụ tá là Hồ Việt Thắng. Thắng là người được đưa sang Trung cộng học về Cải cách ruộng đất, học phương pháp đấu tố rồi về áp dụng ở Việt Nam. Họ chỉ biết học thuộc lòng, cưỡng hiếp oan uổng thực tế Việt Nam bằng bạo lực duy ý chí sao cho phù hợp với sách vở giáo điều. Trường Chinh trước sau cũng chỉ là con vật tế thần của Hồ Chí Minh. Do những sai lầm quá lớn của CCRĐ cũng như số nạn nhân bị giết trong cải cách đã dẫn đến việc Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư trong kỳ Hội thứ 10 của ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam.
Hoàng Quốc Việt Lê Văn Lương bị loại ra khỏi bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban chấp hành Trung Ương.
Tội của bọn họ như thế mà chi bị mất chức thì kể là quá nhẹ.
Một người không phải địa chủ, không ruộng nương, không bóc lột ai, nhưng trở thành nạn nhân cuối cùng của CCRĐ là một trí thức. Người dám đứng ra sửa sai đảng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong bài Tham luận đọc tại Hội nghị Mặt Trận Trung Ương ngày 30/10/1956, tại Hà Nội. Bài chỉ đúng 4 trang rưỡi giấy ấy đòi phải đặt pháp lý hoá trong những vụ xử án. Kết quả ông đã không đòi được những điều ông không thể đòi: 40 năm còn lại, ông bị trù dập và “ngồi chơi xơi nước”. Ông bị trù ếm lâu nhất so với bất cứ loại địa chủ nào chỉ vì muốn đứng về phía lẽ phải, pháp luật. Ông chỉ quên một điều: Đảng vĩ đại nhất ngay cả trong những sai lầm của họ.
Người miền Nam có thể không biết, hoặc biết mà không nhớ là vào thời điểm 1955-56, bên bờ phía Nam của sông Bến Hải, chính quyên ông Diệm có căng một tấm biểu ngữ lớn ghi mấy câu cho người phía bên, phía Cửa Tùng, Vĩnh Linh đọc: Ở đâu con tố cha, vợ tố chồng?
Chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp và những hậu quả của nó
Người nông dân như bần cố nông vừa mới được hưởng ân huệ 4 sào ruộng vì người cầy có ruộng thì nay nhà nước đưa ra chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp. Việc sửa sai CCRĐ chưa xong, nhà nước đã ép nông dân đi vào đường tập thể hóa nông nghiệ theo đường hướng của Stalie và Mao Trạch Đông. Nông dân từ nay phải làm việc tập thể. Theo nguyên tắc: có làm mới có ăn, dưới sự lãnh đạo và theo kế hoạch của nhà nước. Nông dân sẽ bị tập thể hóa từ bậc th lên trên, từ xã lên toàn xã theo kiểu công xã nhân dân Trung Quốc.
95% diện tích đất đai từ nay trở thành của HTX, 5% còn lại để cho nông dân tự canh tác lấy.
Mãi cho đến năm 1986, HTX mới bị giải thể. Từ đó nông dân được tự do sản xuất trên ruộng đất của mình. Ngay đó năng xuất gạo tăng vọt đến có thể dư thừa, sau đó, xuất cảng gạo trên thị trường thế giới.
Từ nay, người dân phải làm đơn để hiến số ruộng mình có, hiến nông cụ, trâu bò của mình cho HTX. Sự bồi hoàn tính ra thành những phần hùn, những ngày công được giảm. Nhưng giả dụ có đi ra khỏi HTX thì không được quyền lấy lại.
Việc làm của xã viên được tính theo công điểm. Thóc của Hợp tác xã làm ra được quy định là nghĩa vụ lương thực đối với nhà nước.
Thực tế trước mặt
Tư lợi vẫn là yếu tố thúc đẩy một quá trình sản xuất. Khì không còn tư lợi, sản xuất sẽ bị trì trệ, ít còn trách nhiệm. Làm cho mình thì người ta có thể sẵn sang hy sinh công sức, ngày giờ, tiền Nhưng khôn ai dại gì bỏ công sức ra làm việc cho HTX, vì chẳng được thêm bổng ra ngoài. Người ấy nhất định nhảy xuống ruộng vá bò ruộng làm thoát nước. Nhưng nếu đấy là ruộng HTX thì người ấy có chịu lảm như vậy không? Chắc là không?
Điều đó cắt nghĩa được HTX tại sao ít năng xuất, tại sao thu hoạch kém, tại sao không bao giờ đạt được đúng chỉ tiêu? Và tại sao thất thu, tại sao cả nước vẫn chưa khá lên được?
Đất nước vẫn chưa ra khỏi cảnh nghèo túng, lạc hậu, vẫn chưa xoá được đói, giảm được nghèo suốt từ 1954 đến 1985.
Khi có nạn thiếu hụt lương thực thì người nông dân có thói quen dự trữ gạo cho họ. Một thứ Self-protection đồng thời họ còn hy vọng kiếm lợi nhuận qua số lúa gạo dự trữ thặng dư. Phần chính quyền mới, không tận thu được, chỉ thu đạt được 82.2% mục tiêu mà họ đề ra. Nhiều tỉnh còn tệ hơn nữa, chỉ thu được 60% như các tỉnh Kiến An, Quảng Bình, hoặc thu chưa được một nửa như các tỉnh Hải Phòng.
Chính quyền mới nghĩ đến việc ép dân vào các tổ hợp lao động (collective labour) với các Hợp Tác Xã mà mục tiêu nhằm tới là giới nông dân. Nhưng đã hẳn công việc hợp tác hóa đã không đạt được yêu cầu như mong đợi của chính quyền Cộng Sản. Trường Chinh chủ trương phải làm thế nào đưa được 70 đến 75% nông dân vào các Hợp tác xã, nhất là tầng lớp nông dân trung lưu. Theo như nhận xét của Ken Post như sau:
The last point strongly indicates that peasants were not settling easily in to the new organizations. This was bound to become worse as the officially estimated 30 percent of “ordinary” and “upper, middle” were enrolled. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Volume 2, Ken Post, trang 258).
Phần những người sống ở thành thị như công chức, bộ đội, công an, cán bộ, nhất là cấp cán bộ lãnh đạo cao cấp vốn không sản xuất ra lúa gạo thì cần tỗ chức sổ gạo, chế độ tem phiếu để có thể phân phối thực phẩm đến tay họ. Xã hội từ nay bị phân hóa ra nhiều thành phần, nhiều cấp bậc như thời phong kiến, măc dầu không còn có vua. Chênh lệch xã hội ngày càng lớn. Kẻ có vây cánh và thần thế chiếm giữ đặc quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân bất mãn với chế độ như trong Ký 54-55 của Trần Dần đã ghi lại.
Chế độ sổ gạo và tem phiếu đã gây ra không biết bao nhiêu bất công, phiền nhiễu, mất thì giờ và cảnh khổ chờ đợi cũng như phẩm chất yếu kém của các món hàng do Hợp Tác Xã bán ra. Dân gian có thói quen gọi XHCN là Xếp hàng cả ngày chắc hẳn là đúng.
Tiêu chuẩn gạo cho quân đội là 18 kí lô/một tháng, người lớn là 13 kílô/tháng. Học sinh 14 ki lô/ tháng. Gạo như thế trở thành món ăn chính. Với số lượng gạo trên, ăn dè mới đủ. Nhiếu nhà, đến ngày 20 mỗi tháng là trong nhà không còn gạo mà ăn nữa. Tiêu chuẩn gạo phân phối như thế đối với một thiếu niên mới lớn thật không cách nào đủ được. Ai cũng phải ăn cả. Không lẽ quân đội thì được ăn nhiều và đầy đủ hơn một người dân thường?
Chưa kể là mua về phải gạo xấu, gạo mốc, gạo mọt, gạo xen cám, xen tấm, xen trấu. Mua về phải sàng lại, phải đãi lọc. Ai trách nhiệm về phẩm chất gạo đây? Kêu ai đây? Trong khi đó, muốn ăn gạo ngon thì cỡ nào cũng có, giá nào cũng có với điều kiện phải mua chợ đen.
Chưa kể là phải chen chúc, cãi cọ, phải chờ đợi, xếp hàng từ 3, 4 giờ sáng để khi cửa hàng mở thì được mua trước. Con cái, vợ chồng phải dạy sớm, thức đêm thức hôm, chầu chực.
Tình cảnh ấy, không thiếu người đã trải qua và cảm nhận được cái vô lý đến phẫn hận của đời sống trong Xã hội chủ nghĩa.
Xin dẫn một chứng từ của ông Nguyễn Đăng Mạnh:
“Ngày 30/04/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là những ngày rất vui. Tuy nhiên về đời sống vật chất thì vẫn khổ, có khi còn khổ hơn cả thời kỳ chiến tranh. Vẫn cơm độn mì hay bo bo. Vẫn xếp hàng chầu chực từ rất sớm để mua gạo mậu dịch. Mì để lâu bị mọt, sinh ra dòi bọ. Tôi đã thấy một lần như thế trong bát cơm của mình. Sợ quá… Làm gì cũng phải xếp hàng, phải chầu chực. Quyền thế nhất lúc bây giờ là bà chủ kho gạo, là cô hàng mậu dịch. Đây là lúc Hoàng Ngọc Hiến từng phát biểu một câu rất tội: Đi đường thấy một xu ai đánh rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ”.
(TríchHồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 55)
Gần đây nhất, tôi có trong tay tờ Công An, thành phố Hồ Chí Minh, bộ mới, số 164, số ra ngày 21/05/2005. ngay trang nhất, tờ báo cho in một câu: Hộ Khẩu. Chưa thể bỏ.
Đã nửa thế kỷ, người dân Việt Nam vẫn còn chịu cảnh sống dưới chế độ Hộ Khẩu.
Có lẽ nhà báo Bùi Tín là người hiểu rõ tất cả guồng máy chính trị cũng như những lắt léo, lạm dụng của cán bộ lãnh đạo cộng sản. Những tiết lộ sau đây của ông Bùi Tín là những tiết lộ “động trời” mà người dân thuờng không bao giờ biết được.
“Gạo cho các vị đã có cửa hàng gạo riêng ở đường Ngô Quyền, cùng đường với tòa nhà Bắc bộ phủ cũ cung cấp. Gạo ở đây là gạo hảo hạng. Thành ủy Hà Nội đã giao cho hai hợp tác xã ờ hai huyện Quốc Oai và huyện Từ Liêm dành riêng ra 100 hedta cấy lúa dự và tám thơm cho các “cụ”. Các thửa ruộng đặc biệt này được được chăm sóc và quản lý đặc biệt, cứ như ruộng để lấy gạo tế trời và để vua “ngự” thời trước vậy.
Các thửa ruộng ấy đều được giữ giống lúa thuần chủng, không xen lẫn với các thứ lúa khác, được chăm sóc đạc biệt, không dung thuốc trừ sâu”.
(Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 265)
Đời sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa là như thế. Người ta nói về nó quá nhiều rồi. Vậy mà nó vẫn tồn tại. Cho nên, muốn giữ cho xã hội khỏi bất mãn, khỏi nổi loạn, nhà nước đã xây dựng một bộ máy công an, một nhà nước chuyên chế và cứ thế, một chính quyền độc đoán đã hình thành. Cho mãi đến bây giờ, bộ máy chính quyền quan liêu phong kiến của chính quyền Hà Nội vẫn lội bì bõm trong ảo tưởng một thứ chủ nghĩa xã hội mà thực tế, họ chưa bao giờ thực hiện được lấy một lần. Đã hơn thế nửa thế kỷ trôi qua kể từ năm 1954, họ vẫn không ngừng hô to tiến lên, tiến lên chủ nghĩa xã hội bất kể bảng chỉ đường của thế giới nói chung tiến về đâu? Và hơn nữa, bất kể phần lớn các nước cộng sản đẵ khước từ nhãn hiệu thế giới đại đồng? Nhưng họ vẫn phải giả dối coi đó như một khúc quanh tạm thời và vẫn không ngừng đem chủ nghĩa Mác ra tuyên truyền và nay cộng thêm tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong thực tế, không một ai trong bọn họ, từ cấp Trung Ương đến địa phương hiểu được tư tưởng đó là tư tưởng gì?
Thay một lời kết
Trung Cộng đã đi trước chính quyền cộng sản miền Bắc trong vấn đề Cải Cách ruộng đất. Họ đã trả giá. Cộng sản VN máy móc, mù quáng làm theo và vẫn chưa một lời xin lỗi các nạn nhân trong vụ CCRĐ.
Cho đến nay, 750 chục triệu người nông dân ở bên Tầu: Ruộng vẫn chưa về tay người cày. Hiện nay, bài toán của Trung Cộng hiện nay vẫn là vấn đề: ĐẤT. Phải triệt để giải quyết theo công bằng và theo pháp lý để quyền lợi đất đai của người nông dân được bảo đảm. Bảo đảm theo nghĩa có quyền sở hữu được canh tác, được cho thuê và được phép bán.
Bài toán nan giải của Việt Nam bây giờ là giải quyết vấn đề đất đai cho người nông dân khỏi bị thiệt thòi và không còn có cảnh đi khiếu kiện nữa.
Nhìn lại hơn 50 năm miền Bắc dưới chế độ cộng sản, người viết chỉ có thể thở dài và nghĩ mình còn may mắn – May mắn vì đã không phải sống dưới chế độ bạo tàn đó.
Vâng, phải nói là may mắn.
“Bài toán nan giải của Việt Nam bây giờ là giải quyết vấn đề đất đai cho người nông dân khỏi bị thiệt thòi và không còn có cảnh đi khiếu kiện nữa.” Trích.
Cũng vì vấn đề đất đai cho dân cày ,
cho nên dân chúng và cả trí thức miền
Bắc đã ủng hộ Hồ chí Minh và đảng của
hắn ta từ buổi ban đầu . Chiến dịch đấu
tố của Việt Minh (đã bị nhuộm đỏ bởi
Hồ) đã manh nha xảy ra trước khi Hồ
thâu tóm được miền Bắc đã làm một
số trí thức miền Bắc ly khai với cộng
sản và chạy về phương Nam .
Hồ chiếm được miền Bắc, vấn đề
ruộng đất cũng không giải quyết được
cho dân cày. Với triết thuyết cộng sản,
“triệt tiêu tư hữu”,ruộng đất trở thành
tài sản chung,tất cả phải gom vào Hợp
tác Xã,được đảng “quản lý”.Dân cày chỉ
sở hữu cái bánh vẽ ruộng đất”.Xã hội
có thêm một mâu thuẫn mới là giai
cấp cán bộ cộng sản,đa số thất học,
giỏi làm tay sai,chỉ đâu đánh đó.Đối
kháng với giai cấp mới được tạo ra bởi
cộng sản : giai cấp làm thuê cho nhà
nước,cho guồng máy vận hành của
Đảng,làm cho đủ điểm chấm công,được
thừa hưởng ,chia chác những thứ còn
lại ,cặn bã thành quả lao động mà
lớp cai trị dạt ra . Phá giai cấp cũ , hình
thành giai cấp mới .
Ruộng đất dưới cái vỏ bọc “nhân dân
làm chủ, đảng quản lý ” lọt thỏm vào
trong tay của tầng lớp lãnh đạo ,được
hợp pháp bởi chiêu bài “tài sản,công cụ
tư liệu sản xuất là của chung ,quốc hữu
hoá,dân cày thì chỉ được cái bánh vẽ :
“Làm chủ tập thể “.
Bây giờ cũng vậy, nhà đất,bất động sản
vẫn do chúng thao túng ,đặt ra luật này
,luật kia để ăn cướp và khống giá nhà
đất ,thao túng thị trường. Tóm thu
những nguồn lợi kếch xù,ăn uống trên
xương máu của dân cày .Vấn đề đất đai
và dân cày,thổ cư cho dân lao động ,
càng ngày càng bị ăn cướp trắng trợn
hơn bởi đám quan chức cộng sản .
Dân cày ,dân nghèo ngày xưa đi theo
Hồ và đám lưu manh cộng sản, vì lời
hứa hão huyền được chia đất cày .
Hồ và đám lâu la cộng sản kia,thực
chất chỉ là một đám lưu manh ,ăn cướp.
Những hậu quả của cộng sản gây ra
cho xã hội và con người Việt Nam nhiều
quá . Một mai nếu một thế lực yêu nước
nào đó đủ sức mạnh để gạt cộng sản
ra ngoài ,không biết có thể xây dựng
được một Việt Nam nhân bản như
thời trước hay không nữa.
Quỳnh Lưu khởi nghĩa 2/11/56- 14/11/56 – JB Nguyễn Văn Định : Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi.
Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng CS.
Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở một đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ.
Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau:
– Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
– Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêụ
– Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công.
– Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.
Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi:
Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley),
Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến,
Hồ Chí Minh,
và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam.
Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.
Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva.
Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9/11/1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số một chờ đợị Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thựá Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại 6 thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.
Sau đó, ngày 10/11/1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảỵ Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và một đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy rạá Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trờị Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.
Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữạ Ðêm hôm dó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở một trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội.
Tờ mờ sáng này 11/11/56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành một vòng bao vây thứ tự Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta.
CS cũng tìm cách lien lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời: Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là một nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có một số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ một cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.
Ðêm 11 rạng ngay 12/11/1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châụ Ðêm hôm đó, 3.000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân.
4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.
Rạng ngày 13/11/1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân, Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu, Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt… Công an tỉnh lẫn trốn từ lâu trước khí thế nàỵá Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.
Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này.
Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC. Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứụá Vòng đai chiến trạn đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13/11/1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu tranh.
Ngày 14/11/1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưụá Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không 2 trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quan được truyền đi.
Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâụ Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội CS đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này.
Không bắt được ai, CS tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân”
CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.
CS đã dùng bạo lực đàn áp, giết và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu.
Nếu không có Hiệp Định Geneve 7/54, Việt Minh sẽ bị sụp đổ :
Lê Đỗ Huy – 22/4/2014 – Blog Văn Hóa Nghệ An:
Ở ngưỡng cửa đàm phán tại Geneva về Đông Dương, Thủ tướng Chu Ân Lai đã có một tổng thuật về Việt Nam trái chiều đến mức Tổng bí thư Liên Xô cho nhượng bộ về chia cắt Việt Nam tại vĩ tuyến 17 là một “thắng lợi” của phe XHCN tại một cuộc đối đầu giữa hai phe “có tầm quan trọng bậc nhất” thời đó.
Tổng Bí thư đảng Cộng sản LX, Nikita Khrushev, đã viết trong hồi ký mình như sau ở trước thềm Hội nghị Geneva (bắt đầu bàn vấn đề Đông Dương từ 8/5/1954) “Khrouchtchev Souvenirs” (Traduction en langue française, Edition Robert Laffont, 1971, pages 456-457).
[Hồi đó chúng tôi (Liên Xô) đang còn quan hệ hữu hảo với Đảng cộng sản Trung quốc. Một cuộc họp trù bị trước ngày khai mạc Hội nghị Geneva đã được tổ chức ở Moscow. Chu Ân Lai thay mặt cho Trung quốc, Hồ Chí Minh (nguyên văn) và Phạm Văn Đồng thay mặt cho Việt Nam. Chúng tôi (ý nói Liên Xô và Trung quốc – ND) cùng xem xét tình hình Việt Nam để ra quyết định bày tỏ một lập trường chung ở Geneva.
Tình hình Việt Nam rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến Việt Nam lúc đó sắp sụp đổ. Những người kháng chiến (Việt Nam) kỳ vọng Hội nghị Geneva mang lại một cuộc ngừng bắn để họ có thể giữ được những phần đất nhân dân Việt Nam đã giành được trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Pháp chiếm đóng Hà nội. Trên bản đồ thể hiện những kiến nghị để giải quyết, người ta nhận thấy những vùng lõm tương ứng với những miền đất bị Pháp chiếm trên lãnh thổ (Việt Nam).
Ra khỏi một cuộc họp như thế tại phòng họp Catherine, điện Kremlin, Chu Ân Lai kéo tôi (Khrushev) bước ra xa để nói riêng, rằng: “Đồng chí Hồ Chí Minh nói với tôi (Chu Ân Lai) là tình hình ở Việt Nam là tuyệt vọng, nếu chúng ta không đòi được ngừng bắn thì Việt Nam không còn sức kháng chiến chống Pháp lâu dài được nữa”. Vì vậy, họ (Việt Minh) đã quyết định rút quân về phía biên giới Trung quốc, và nếu cấp thiết họ (Việt Minh) mong chúng tôi (Trung quốc) sẵn sàng đưa quân sang Việt Nam như khi trước chúng tôi đã mang quân sang Bắc Triều tiên.
Nói cách khác, là Việt Nam muốn chúng tôi giúp họ đánh đuổi Pháp. Tuy nhiên, chúng tôi không thể đáp ứng yêu cầu này của Đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã mất nhiều sinh mạng ở Triều Tiên, nói cách khác chiến tranh ở đó là giá rất đắt với chúng tôi. Hiện tại, chúng tôi không thể dấn thân vào một cuộc xung đột mới nào nữa.”.
Tới đây, NXB Pháp Robert Laffont có một câu chú thích: Cả thế giới và phương Tây đều không ngờ rằng tình hình của Việt Minh tới lúc này cũng tuyệt vọng. (Tout le monde, à l’Ouest, ignorait que la situation des Vietnamiens fut aussi désespérée). Nói riêng, các tư liệu của Bộ ngoại giao và của Bộ quốc phòng Mỹ thời kỳ chiến dịch Điện Biên Phủ, và hồi ký của các tướng lĩnh Pháp đều thể hiện, chính tình thế của Pháp trên chiến trường Đông Dương lúc đó mới có thể xem là “hấp hối”.
Nikita Khrushev viết tiếp:
[Đến đây, tôi (Khrushev) đề xuất một yêu cầu với đồng chí Chu Ân Lai:“Cuộc đấu tranh hiện tại (của nhân dân Đông Dương) có tầm quan trọng bậc nhất, và người Việt Nam đã chiến đấu giỏi. Người Pháp đã thiệt hại nặng nề. Đồng chí không có lý do nào để nói với Hồ Chí Minh là các đồng chí (Trung quốc) từ chối sự giúp đỡ của mình, nếu quân (của Hồ Chí Minh) phải rút về vùng gần biên giới Trung quốc. Trái lại hãy làm cho họ tin tưởng rằng các đồng chí luôn sẵn sàng giúp đỡ khi cần thiết, và như thế sẽ giúp họ tăng nhuệ khí trong cuộc chiến đấu chống Pháp”. Chu Ân Lai đồng ý sẽ không nói với đồng chí Hồ Chí Minh là đất nước của họ (Trung quốc) không muốn tham chiến chống Pháp trên lãnh thổ Việt Nam].
Tại thời điểm ấy (khoảng nửa sau tháng 4/1954 – đợt tiến công thứ 2 tại Điện Biên Phủ, Pháp mất nhiều địa bàn chiến lược trên chiến trường Đông Dương), Chu Ân Lai cho rằng Việt Nam đã bại đến mức phải “rút về vùng biên giới Việt Trung”, và đã “yêu cầu” Trung quốc phải tiến quân sang Việt Nam theo một kịch bản “kháng Mỹ viện Triều”, điều mà Trung quốc không thể làm?
Lẽ nào Chu Ân Lai không theo sát được diễn biến ở Đông Dương trên đường tới một Hội nghị về Đông Dương? Câu hỏi này đến hôm nay đòi được trả lời. Chỉ biết rằng hồi ký của các chuyên gia Trung quốc từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, và các nguồn chính thức của Trung quốc đều nhất nhất chỉ ra rằng: Chủ tịch Mao, và ban lãnh đạo Trung quốc thời đó từng ngày theo sát chiến sự ở Điện Biên Phủ, thậm chí tham gia vào chỉ đạo đánh cách này, cách khác. Ông Khrushev viết tiếp:
[Rồi một phép lạ đã xảy ra. Đúng vào lúc các đoàn đại biểu các nước tới Geneva, thì lực lượng kháng chiến Việt Nam thắng một trận lớn, chiếm được pháo đài Điện Biên Phủ.
Ngay từ phiên họp đầu, Thủ tướng Pháp, Mendès France, đã đề xuất rút ngayquân Pháp xuống dưới vĩ tuyến 17. Xin thú thật, tin này khi đến tai chúng tôi (Moscow) đã gây há hốc mồm (vì kinh ngạc) và sung sướng. Chúng tôi chưa từng hi vọng điều gì như thế. Việc (Pháp phải) lui quân xuống dưới vĩ tuyến 17 trên thực tế chính là mức tối đa mà chúng tôi (Kremli) lấy làm xuất phát điểm cho đàm phán. Chúng tôi đã chỉ thị cho các nhà ngoại giao của chúng tôi là phải chú trọng những điểm trên chỉ với mục tiêu chung nhất, khẳng định bước vào cuộc chơi với tư thế cứng rắn. Sau vài thảo luận chúng tôi bằng lòng với đề xuất của Mendès France, và Hiệp định Geneva đã được ký kết. Chúng tôi đã thành công trong củng cố thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam] (hết trích hồi ký Khrushev).
Với Hiệp định Geneva, Việt Minh mất quyền kiểm soát Liên Khu 5, nơi trên thực tế, Pháp chỉ kiềm soát được “một giải đất ven biển, nhỏ hẹp và các tỉnh Huế, Tourane (Đà Nẵng)”, theo các nhà quan sát từ bờ nam vĩ tuyến 17.
60 năm nhìn lại, Michael Burleigh chỉ ra chính Trung quốc cũng bất ngờ trước chiến thắng Điên Biên Phủ. Ông viết:
“Giáp đã không biết rằng Trung quốc đã chấp nhận chính sách ‘tiến công hòa bình’ của ban lãnh đạo xô viết để giải quyết cả hai vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Như chính họ đã làm ở Triều Tiên trước khi ngừng bắn để đàm phán, người Trung Quốc muốn dấy một cuộc tiến công lớn để khuếch trương vị thế của đồng minh cộng sản trên bàn đàm phán, và họ (Trung Quốc) đã không thực sự mong đợi chiến thắng trọn vẹn của tướng Giáp ở Điện Biên Phủ”.
Lê Đỗ Huy (dịch, chú thích)
Hihi, còm trước bác cho là CSVN mắc sai lầm khi nghe lời Trung Quốc, còm này hoàn toàn lật kèo còm trước . Còm này nêu rõ chiến thắng ĐBP hoàn toàn của Trung Quốc, và chắc chả bao giờ ai biết được how much involved is Trung Quốc chong chiện này .
“họ (Việt Minh) đã quyết định rút quân về phía biên giới Trung quốc, và nếu cấp thiết họ (Việt Minh) mong chúng tôi (Trung quốc) sẵn sàng đưa quân sang Việt Nam như khi trước chúng tôi đã mang quân sang Bắc Triều tiên” & then “Chỉ biết rằng hồi ký của các chuyên gia Trung quốc từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, và các nguồn chính thức của Trung quốc đều nhất nhất chỉ ra rằng: Chủ tịch Mao, và ban lãnh đạo Trung quốc thời đó từng ngày theo sát chiến sự ở Điện Biên Phủ, thậm chí tham gia vào chỉ đạo đánh cách này, cách khác. Ông Khrushev viết tiếp:
[Rồi một phép lạ đã xảy ra. Đúng vào lúc các đoàn đại biểu các nước tới Geneva, thì lực lượng kháng chiến Việt Nam thắng một trận lớn, chiếm được pháo đài Điện Biên Phủ”
Có nghĩa cúng cùi thì Trung Quốc đã giúp VIỆT NAM đánh thắng trận ĐBP, rất có thể với quân đội của chính Trung Quốc
Cho tớ nghi ngờ văn bản dịch khúc này “và họ (Trung Quốc) đã không thực sự mong đợi chiến thắng trọn vẹn của tướng Giáp ở Điện Biên Phủ”. Cao Việt Dũng có thể cho 1 người đàn ông mắc ung thư cổ tử cung, và chiện trí thức trong nước lanh mưu, cấm nói lái, ai cũng đã rõ . Need another pair of eyes, níu có ai đó paste nguyên văn tiếng tây hoặc tiếng u lên, then maybe … Ngoài ra … ill check it out
Achetez d’occasion16,90 €
Bi giờ Phi đang dùng Mỹ & các nước tư bửn để kiếm cách re-claim những vùng đảo biển tranh chấp giữa VN & Phi, trong đó có 1 đảo mà Tô Thùy Yên ghi lại trong thơ của mình
Phi tránh cái tên VN, mà nói đó là Trung Quốc claim bất hợp pháp . Nhưng thật ra đảo đó ngày xưa thuộc VNCH. Vừa rùi, Mỹ, Nhật, Úc & Phi tập trận gần đó
Chỉ mong Việt Nam hổng có học Trịnh Công Sơn thói đâm sau lưng chiến sĩ
Đến 4/10/79, CS Hà nội mới mếu máo ra Bạch Thư tố cáo quan thày Trung quốc đã xử ép trong vấn đề Hiệp Định Geneve:
(Vài trích đoạn) Ngày 4 tháng 10 năm 1979 nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong suốt một thời gian dài …
Đến ngày 10 tháng 7 năm 1954, phía Việt Nam vẫn kiên trì lập trường của mình về vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, vẫn chủ trương đòi có đại biểu của Chính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia như các bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất nước nhà.
Từ tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt nam nhân nhượng nhiều hơn nữa, thậm chí muốn Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải Phòng)
Nhưng về sau, đặc biệt từ ngày 10 tháng 7 năm 1954, 10 ngày trước khi Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng, “có những điều kiện công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể nhận được để đi đến Hiệp định trong vòng 10 ngày, điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại”.
Khi đó Trung Quốc còn lo sợ Mỹ có thể can thiệp bằng vũ trang vào Đông Dương, uy hiếp an ninh của Trung Quốc, nhưng cần nói rằng Trung Quốc cũng dùng những lời của Mỹ đe doạ chiến tranh để ép Việt Nam.
…… Xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hoà bình, theo xu thế chung giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng và trong tình thế bị Trung Quốc ép buộc, Việt Nam đã chấp nhận giải pháp: các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương, Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai miền, tiến tới có tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhất nước nhà.
…… giải pháp Giơnevơ đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một khả năng rõ ràng là hiện thực như so sánh lực lượng trên chiến trường lúc bấy giờ đã chỉ rõ.
Đó là điều mà những người lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ hơn ai hết.
Đây là sự phản bội thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
“giải pháp Giơnevơ đã ngăn cản nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một khả năng rõ ràng là hiện thực như so sánh lực lượng trên chiến trường lúc bấy giờ đã chỉ rõ”
Tại Mỹ nhúng bàn tay lông lá của nó vào nên mới xảy ra cớ sự .
Yên chí đi, đúng là chỗ nào có khói, chỗ đó có Ba Tàu, nhưng cái bật lửa maze in US of A
May quá, hải quân của VN & TQ đã đi tuần tra chung
Miến Điện là 1 ví dụ về sự không can thiệp của Mỹ
Ô Aung San, cha của bà Aung San Suu Kyi sáng lập ra đảng CS Miến, wa Trung Quốc tìm sự giúp đỡ . Hổng nhìu nhưng cũng hổng ít . Thất vọng hay vì 1 ní zo nào đấy, ổng từ bỏ đảng CS do chính ổng thành lập, lập 1 đảng phái phi Cộng Sản, giúp Anh đánh lui Nhật . Sau khi Nhật bị đánh lui, Anh trao trả độc lập cho đảng của ông Aung San .
Sau đó ô Aung San bị đảng CS mà chính ông là người thành lập ám sát, và Cộng Sản lên thống trị ở Miến tới giờ này
Thời gian đó, chiện trao độc lập cho 1 đảng phi CS xảy ra khá bình thường .
Tại sao Mỹ ủng hộ Pháp kéo quân lại vào VN, vì họ phát hiện Hồ Chí Minh là CS. Archimedes Patti, đội trưởng đội OSS cử qua giúp HCM hoàn toàn hổng có nghi ngờ, nhưng thuộc cấp gửi những báo cáo vượt cấp về Võ Nguyên Giáp mở lớp Mác-Lê vỡ lòng cho cán bộ . Có báo cáo cho Patti nhưng ổng bỏ ngoài tai
Chính những báo cáo vượt cấp đó đã làm cho OSS quyết định rút toàn bộ Deer Team về . Hôm cúng cùi, Patti mới hỏi HCM ông có phải là CS không, HCM trả lời, Ta vưỡn có thỉa là bạn muh
Sau vụ đó Patti về hưu non, không còn giữ bất cứ 1 chức vụ gì ở OSS
Hồi họp ở Geneve năm 54, bọn Hồ chí Minh – Phạm văn Đồng tham lam cứ nằng nặc lấy vĩ tuyến 13 làm nơi phân chia lãnh thổ . Rốt cuộc, dưới sức ép của Trung – Xô, HcM- PvD đành phải cúi đầu vâng lệnh “ vĩ tuyến 17 “:
**Sử gia Phạm Cao Dương : Hội nghị Geneva năm 1954 không phải được nhóm họp sau ngày sự kiện Điện Biên Phủ chấm dứt, mà nó đã được triệu tập từ trước rồi (từ ngày 26 tháng 4). Mục tiêu của hội nghị ban đầu không phải bàn về Việt Nam mà bàn về chiến tranh Cao Ly (Triều Tiên). Việc bàn về Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 mới bắt đầu và không phải là chính. Nhưng vì tình hình tại Việt Nam thay đổi: biến cố, trận chiến Điện Biên Phủ chấm dứt nên người ta họp vào ngày đó.
Điểm nữa về phân chia lãnh thổ. Khi có sự chia đôi, bên phía người Pháp đề nghị vĩ tuyến 19 và phía Việt Minh muốn vĩ tuyến 13 hay ít ra là vĩ tuyến 16; nhưng cuối cùng cũng hai ông Chu Ân Lai, Molotov và phía người Pháp – Mendes France, thỏa thuận vĩ tuyến 17.
**Sử gia Trần Gia Phụng : Tân thủ tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève để hội đàm với ngoại trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10-7, và ngoại trưởng CHNDTH là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13-7.
Pháp, Liên Xô và CHNDTH thỏa thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm Văn Đồng, đại biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm Văn Đồng đành chấp nhận.
**Sử gia Pháp Jean Lacouture – người tôn thờ thần tượng Hồ Chí Minh – trong quyển “La fin d’une guerre, Indochine 1954” thuật lại rằng : Sáng đó, Phạm Văn Đồng, Eden (Ngoại trưởng Anh) và Molotov gặp nhau. Buổi trưa Mendès France (Pháp) gặp Chu Ân Lai rồi cả hai đi tới Bocage để gặp Đồng, Eden và Molotov. Jean Lacouture viết :
“Chung quanh một chiếc bàn lớn, ghế xô đẩy ngổn ngang, người ta thấy bốn ông Eden và P.M.F (tức Pièrre Mendès France) , Molotov và Châu Ân Lai bao quanh Phạm Văn Đồng, ông nầy mồ hôi nhễ nhại trước mặt một bản đồ Đông Dương, mặt hốc hác hầu như đau đớn: bởi địa thế của phần Việt Nam Cộng Sản cứ phải bị đẩy lui dần từng cây số một về phía Bắc.
“Đến khoảng 17 giờ, Molotov nói như truyền lệnh: bằng lòng nhau về vĩ tuyến 17 đi… (entendons-nous sur le 17è parallèle…)
“Eden và P.M.F vội liếc nhìn nhau: Vĩ tuyến 17 chỉ còn cách đường phân ranh của Anh-Mỹ có chừng hai chục cây số, vậy xin chấp nhận!”
Lại nữa là khi họp riêng ngày 15-6-1954, với đại diện Liên Xô (ngoại trưởng Molotov) và đại diện CHNDTH (thủ tướng kiêm ngoại trưởng Châu Ân Lai), Phạm Văn Đồng bị đại diện hai nước nầy ép phải chấp nhận những giải pháp riêng biệt về ba nước Đông Dương, nghĩa là Việt Minh phải rút quân ra khỏi Lào và Miên.
“mặt hốc hác hầu như đau đớn: bởi địa thế của phần Việt Nam Cộng Sản cứ phải bị đẩy lui dần từng cây số một về phía Bắc”
Dân hải ngoại có thấu cảm cái đau đớn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng hông ? can i get a Hell Yeah!
Thiệt ra níu mún hận thù thì Mỹ là kẻ thủ phạm của chiện này, chia cắt VN
1 bên được xem là tham dự, nhưng vai trò của họ wan chọng hơn tưởng nhiều . Đó là Mỹ . Lúc đó Mỹ chưa có “trực tiếp” tham chiến ở Việt Nam, nhưng … Thía lày dá . Còn nhớ Roosevelt gặp gỡ de Gaulle & de Gaulle mong Mỹ tiếp sức cho Pháp trở lại VN? Roosevelt said No, nói nên dẹp chế độ thuộc địa đi . Anyone know what happened after that meetin? Roosevelt chít, Harry Truman lên, và xảy ra chiện Berlin bị chia đôi . Truman vưỡn tiếp tục ý giải thuộc địa của Roosevelt nhưng với đk, chính quyền mới phải là phi Cộng Sản . 1 loạt nước được giải thực là nhờ vậy . Nhưng ở những nước Cộng Sản, thats a different story. Nên nhớ, sau WWII, Pháp hoàn toàn khánh kiệt . Yet, họ có thể đem quân trở lại VN, và cầm cự cho tới ĐBP 54. Hoàn toàn nhờ viện trợ của Mỹ . Lính ĐBP biết, pháo maze in US of A, botes de chaud, dù … toàn maze in US of A. Và hội nghị VN cũng thía . Mỹ làm áp lực lên LS & TQ, vốn còn yếu lúc đó, và đổi lấy viện trợ để chia đôi VN, với mục đích là để lập nên 1 chế độ footprint của mình, ngăn cản bước tiến của CS. Thư viện Truman có a few -not all- docs zìa chiện này . Zô đó mà lục . Và nhờ đó mà thể chế VNCH được thành lập
Níu đổ hết cái “tội” này cho Trung Cộng thì VNCH nên in debt, vì nhờ Chu Ân Lai ép buộc mà VNCH có dịp được thành lập .
In the name of hòa giải hòa hợp, tụi bay làm nhiều chiện khá táng tận lương tâm
Bi giờ thử entertain cái thought là Cộng Sản hổng nghe theo Chu Ân Lai, hưởng hết toàn bộ VN như initially thought nha
– Số nạn nhân của CCRĐ sẽ hổng dừng ở đó
– Nền Cộng Hòa hổng được thành lập, cả nước dưới sự lãnh đạo của Cộng Sản . No nothin, absolutely Nada, và những thành/hậu -tùy cách nhìn- quả của thể chế Cộng Sản có thể sẽ tăng gấp trăm gấp ngàn lần, in the mean time, theres absolutely no nothing, absolutely nada, thậm chí không có cả khối dân VN ở hải ngoại hiện giờ . Níu có chắc cũng hổng được như bi giờ
and you like it huh?
Phúc Kđinh useful idiots
Dmcs
Dm mày dog red china
Dm mày dog thằng Tàu chệt muỗi Tàu
Nếu dog CSBV không nghe thì dog red china không viện trợ thì dog CSBV chết ngay lập tức
Con lập luận ngu như dog
Toàn bộ nền văn hóa của miền Nam hoàn toàn không hiện diện để mà tụi bay đem ra mà so sánh . Không Thanh Tâm Tuyền, không Ngô Thụy Miên, không Tô Thùy Yên, không, không có gì cả . Ngoài văn thơ cách mạng, Tố Hữu, Nguyên Ngọc và đám thơ văn cách mạng quỷ tha ma bắt
Goddamn stoopides!
Nhà báo Bùi Tín- cựu đại tá CSBV : Người đề ra việc chia cắt Việt nam làm 2 miền chính là Chu Ân Lai nhằm làm cho cuộc họp kết thúc nhanh, được phía chính phủ Pháp tán thành ngay giữa thái độ sửng sốt, ngỡ ngàng của trưởng đoàn Phạm Văn Đồng và tất cả đoàn VN dân chủ cộng hòa.
Đầu tháng 7-1954, Chu Ân Lai từ Genève trở về Bắc kinh báo cáo với Mao rồi ghé qua Liễu Châu ở Quảng Tây, gần biên giới Trung – Việt, triệu tập ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp sang gặp tại đó, ép buộc chấp nhận gỉai pháp chia cắt. Chu ép rằng ‘’Mao chủ tịch đã tán thành ý kiến này; chia cắt chỉ tạm thời thôi, trong khi chờ tổng tuyển cử toàn quốc; phải giải quyết sớm không thì Mỹ sẽ can thiệp …’’. Ông Hồ băn khoăn đành cúi đầu, tướng Giáp cay đắng vẫn phải vâng lời. Chu còn ngỏ ý việc chia cắt sẽ ở vào quãng vĩ tuyến 16, nơi hồi 1945 các nước Đồng minh quy định ranh giới cho việc giải giới quân phát xít Nhật (quân Anh ở phía Nam, quân Trung hoa Tưởng ở phía Bắc).
Ngày 20/7/1954, ngay trước ngày ký Hiệp định Genève, chính cũng lại Chu Ân Lai ép Phạm Văn Đồng chấp nhận việc chia cắt ở vĩ tuyến 17, dọc theo sông Bến Hải, viện cớ rằng Thừa thiên – Huế là Cố đô, có nhiếu lăng tẩm nhà Nguyễn nên Pháp và ông Bảo Đại không chịu nhượng bộ. Lại một quả đắng phải nuốt vì trước đó Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu nhận điện của tướng Giáp từ Hànội… đã cò kè với phía Pháp đường chia cắt phải ở vĩ tuyến 13 (qua đèo Cả) rồi lùi về vĩ tuyến 14, 15, rồi cố giữ ở vĩ tuyến 16 (phía Nam đèo Hải Vân) như Chu Ân Lai từng hứa hẹn, mà cũng không đươ.c. Chỉ thị trước đó của Phạm Văn Đồng cho Tạ Quang Bửu khi mặc cả với phía Pháp :’’ không được để mất vùng Nam Ngãi Bình Phú (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên)’’ chỉ là ý muốn hão huyền.
Holy Xít, níu xem đây là “tội ác” của Trung Cộng … người này have a weird sense of chống Cộng . Cho tớ hổng có share cái sentiment này với s/he/it, who or whatever the Phúc you are. Nguyễn Ngọc Giao áp dụng sêm xít để nói dân hải ngoại nên chống Trung Cộng
Just imagine this, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hổng nghe theo lời Trung Cộng, Chu Ân Lai, did you ever entertain the thought what wouldve happened?
Níu you xem đáng lẽ ra Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hổng nghe lời Trung Cộng mà chiếm cả miền Nam từ đó, you in the same boat với những kẻ đang đấu tranh cho nền Dân Chủ Cộng Hòa đệ Nhị à la xì tai Trương Nhân Tuấn
Yeah, i need mo of them.
can i consider you as 1 mo vote for that ?
Hiện nay, các trí thức đáng kính trọng tại Việt Nam, Tiến Sĩ Mạc Văn Trang, Nhà Báo Lê Phú Khải, Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Chu, Giáo Sư Chu Hảo, Chí Sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, , Đại Sứ Hùng Ba, Nhà Thơ Bùi Minh Quốc, Giáo Sư Chu Mọng Lông, … được sự ủng hộ của các trí thức hải ngoại như Nhà Văn Tưởng Năng Tiến, Giáo Sư Ngu Thế Vinh, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Tập Cận Bình, Giáo Sư Lê Xuân Khoa, Tổng bí thư Hun Sen, Tổng thống Putin, Nhà Thơ Cung Tích Biền, Nhà Thơ Du Tử Lê, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Vương Nghị, Giáo Sư Trương Nhân Tuấn … đang đấu tranh để Việt Nam trở lại nền dân chủ có được do đánh thắng Mỹ & tay sai của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa .
Giáo Sư Trương Nhân Tuấn gọi cái này là nền Dân Chủ Cộng Hòa Đệ Nhị
Ai có lương tri & còn nghĩ mình là người Việt nên hưởng ứng .
Bài viết nầy có giá trị Những thước phim những tấm ảnh quí giá ghi lại thực trạng một xã hội 70 năm trước đã bị CSVN đem thí nghiệm, nhào nặn theo mô hình một triết thuyết chính trị điên rồ của bọn Tàu cộng , trong mộng tưởng điên cuồng của những kẻ ngu. Chúng đã phá nát bao giá trị tổ tiên để lại, giết oan bao đồng bào, phản bội bao tấm lòng tin tưởng hy vọng …mà qua đó đã hy sinh vô biên cho ngày thành công 1954 để chúng bước lên ngôi vị vinh quang để thống trị trở lại chính những ân nhân tội nghiệp của chúng!
Thế mà chúng là bậc sư giỏi che đậy địa ngục ở Bắc, tiếp tục tuyên truyền dối trá, lôi cuốn quyến rủ RẤT ĐÔNG TRÍ THỨC Ở MIỀN NAM…để rồi tiếp tục dựng nên địa ngục 20 năm xương tan thịt nát lần nữa ở phương Nam….
Cuối cùng hoàn thảnh cái gọi là giải phóng miền nam, đưa tới gần 50 năm phá nát luân thường đạo lý ở miền nầy mãi cho đến nay!!!
Có một điều thắc mắc: hẳn tài liệu nầy ông Lục viết đã lâu, nay chỉnh sửa lại chút ít để đăng trên đcv, thế nhưng sao vẫn còn quá nhiều lỗi chính tả, và vài lủng củng trong hành văn lẽ ra không đáng có, khiến hình thức không tương xứng với nội dung.
Ngày mai trong đám đảng viên đó,
Có kẻ tử hình, kẻ phơi thây!
Nhật nguyệt xoay vần che mất nẻo
Miền Bắc tan hoang Trung cộng chiếm
Miền Nam đứng vững ngọn cờ Vàng
“Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”
Năm năm phòng thủ đỏ sông Gianh!
Gần đây nhất, tôi có trong tay tờ Công An, thành phố Hồ Chí Minh, bộ mới, số 164, số ra ngày 21/05/2005. (NVL)
Tờ báo chùi đíc ở VN chuyên giựt tít chuyện “hình sự” để câu khứa. Nhưng mà ở đời nhiều chuyện oái oăm, dân Mít trong nước ngán ngẩm thì mấy anh Mít ngoài lại hồ hởi phấn khởi tìm đọc. Tại sao? Bởi vì không đọc báo VC thì chắc cũng đếc biết gì để viết. Rốt cuộc là điểm báo chào mời không công cho VC.
Ngu quá, VC chỉ cần nói: Ờ lúc đó tụi tao vậy đó, còn bây giờ thì sao? Sao tụi bây chui đầu về VN làm gì? Tụi bây chui đầu về VN lạy lục tụi tao để kiếm ăn hay là để có 4 món ăn chơi phải không ? => Ngọng !
Nhiều anh Mít đặc lánh nạn VC, ở Tây ở Mỹ nhưng chỉ toàn là nói chuyện của VC. Còn chuyện VNCH sao các anh không nói? Ccrđ của VC thì Mít đặc rành quá còn Luật Người Cày Có Ruộng thời VNCH thì sao? Hay là lại NÉ “thằng” Thiệu ?, hay là cũng đếc biết gì để viết !
Nói nào ngay, đọc mấy ông nửa nác nửa mỡ này thà đọc thẳng VC thứ thiệt còn có “trình độ” hơn nhiều. Xuống cho xe chạy đi mấy má Mắc … địc Ha ha ha !
Hồ Chó minh 08/04/2024 at 23:32
Dmcs
Dm mày dog phét không dám trả lời
Kaka nhục nhã quá
hohui 08/04/2024 at 13:16
Phét ơi là Phét!
Trong ngày đấu tố, theo lệnh của “bác và đảng”….
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!
Phét lại quát:
– Thế chúng mày biết chúng mày có tội gì chưa?
(con) mẹ Phét mếu máo:
– Dạ thưa ông Phét – tội của chúng tôi là đã để ông Phét phải chui ra từ cái lỗ….L…ồn ạ!
“bác Hồ” vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp “Cách mạng thổ địa – long trời lở đất” của …chúng ta!
Tội nghệp (thằng) bố và (con) mẹ “anh Phét”!
Phản hồi
Hồ Chó minh 08/04/2024 at 13:36
Dmcs
Còn thiếu
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!= Trích
Dog phét = dm mày, tao không phải là con của mày, tao với mày là kẻ thù giai cấp, không chết không thôi, tao đít chết me mày thằng địa chủ gian ác. Dân quân đâu, lôi 2 đứa súc vật này đi bắn.
Khà khà khà, sắp tói kỷ niệm 70 năm ngày Viet Công chúng anh lảnh đạo toàn dân BỌP TAI Páp . Củng vài tuần nửa VIET CỘNG chúng anh lại kỷ niệm 49 năm ngày Ngụy Nhào MẼO cút.
Đúng là điểm hẹn của lịch sữ. 55 ngày đêm chiến dich ĐIEN BIEN PHỦ chấm dứt 97 năm làm kiep tôi mọi thèng PÁP và củng 55 ngày đêm két thúc bằng chién dich HO CHI MIMH lịch sữ chấm dứt 21 năm chia cắt 2 miền bằng cuộc tháo chạy cởi áo tuột quần của đội quân TAY SAI và ĐẾ CUỐC mạnh nhất thế giói phải cuốn cờ tháo chạy trong hoảng loạn.
Ai lam đuọc điều này? Chính là Dân Tộc Viet Nam duói sự lảnh đạo của VIET CỘNG chúng anh chứ ai vào đây huh?
Ngày nay TÀn Dư Ngụy Cock có cải chày cải cối cách gì đi nửa thì chẳng thê nào thay đổi đuọc lich sữ của PÁP ,MẼO ,VIET NAM và cả thé giói.
Ngày nay và mai mải về sau cho tói triệu triệu năm hể cú mổi lần bu PÁP, bu MẼO giở lại trang sử của chúng đều KHÔNG THỂ NÀO QUÊN rằng Dân Tộc VIET NAM đả giang’ lên đầu chúng những đòn chí mạng để châm dứt MỘNG THƯC DÂN vá ĐÊ QUOC của chúng.
Chỉ có chiện này, ngày xưa Nguyễn Tuân viết “Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi!”. Chỉ bít kỳ vừa rùi kêu “Chống dịch như chống giặc”, nhưng hổng bít “giặc” bi giờ là ai nên thành chống dịch như ccc. May mà có Trung Quốc & Thủ tướng Phạm Minh Chính . Nghe lời lũ trí thức nhà tụi bay là banh càng hít lun
Tiến Sĩ Mạc Văn Trang nói chết vì covid là Vô Minh, bác sĩ thì mún dân mình ngủ nằm xấp để Covid nó khỏi bay vô mũi!!!???
May mà Đảng tụi bay bỏ ngoài tai “những lời xuất phát từ trái tim” more like where the sun dont shine của tụi nó . Nghe thì số tử vong cao bằng ngoài này đó nghe con
“May mà có Trung Quốc & Thủ tướng Phạm Minh Chính”
Họng mầy cũng khá thâm, và thần kinh thì đã chai lỳ với xấu hổ rồi.
Mầy biết rõ hơn ai hết, chính bọn Tàu đại lục hiện bây giờ đây đang trả nợ vacc dỏm với covid tái phát và nhiều bịnh lạ phát sinh do hệ miễn nhiễm bị phá hoại bởi vacc dỏm, do thói một bước tới trời của bọn lãnh đạo –
chính là hiện tượng tẩu hoả nhập ma với vắcxin vérồxeo sản xuất bởi Sít-nô pharma đấy muỗi ạ !
Ăn cắp công thức chế tạo vũ khí, máy bay tàu lặn của Âu Mỹ thì được một thời lợi dụng hớ hênh cả tin của Tây Phương, nhưng những món mới sau nầy người ta kỷ lắm vì biết tỏng tâm địa bọn Tàu rồi.
Ăn cắp không được, bèn đi hia vạn dặm một bước tới Vương quốc của Địa Tạng!
Giờ bọn Tập đang giấu như mèo giấu xít tin dân Tàu chết… nhiều quá thiêu không kịp, là vì thấm đòn vắcxin dỏm hại người trời hại…
Nhắc lại chuyện mụ xẫm trương mỹ lan chịu móc hầu bao vạn thịnh phát ra 45 triệu đô Mỹ mua vắc xin Vé rồ xeo đểu của Tàu để “tình cho không biếu không” dân thành hồ đang ngắc ngoải sau chiến dịch “thần tốc há mồm chìa mũi cho ngoáy”.
Nhưng dân Sg vẫn còn lắm của, họ lắc đầu ngoày ngoạy với vérồxeo khi nghe đó là của Tàu, và chỉ xắn tay áo chìa vai cho Pfizer hay Moderna thôi, theo tuy dô riêng của họ, chuyền tai nhau, xuống quận Tốm có ngay, mất 100, lặng lẽ nộp cho ai đó.
Cán bộ cs cũng bắt chước làm theo, vì chính bọn chúng bắn tiếng chào hàng cho đám nào đó lan tin ra chào mời. Chứ ai mà chen vô nổi mấy dzụ nầy.
Chỉ còn dân nghèo, không quen biết, và đầu óc ít học còn bán tín bán nghi mới vướng phải món vacxeotàu nầy!
Nay chỉ còn họ đang trả giá cho sức khoẻ suy sụp dù dịch đã hết hơn2 năm rồi.!
Còn quan lại từ cấp quận trở lên đều ưu tiên xài vaccine hiện đại của Âu Mỹ gửi viện trợ trong số cả vài triệu liều; dư ra mới đưa xuống dân thành thị, nơi có nguy cơ dân đầu óc rắc rối truyền miệng nhau sẽ từ chối vaccine Tàu và kiên trì chờ chỉ tiêm vacc Âu Mỹ; mà dịch thì ngày càng hoành hành, lò thiêu Bình hương hoà giải quyết không kịp, khiến quan lại sợ tình hình tá hoả ra, không dám giữ vacc xịn làm của riêng, phải xả kho xuống cho dân.
Đến nổi sau nầy vacc tốt còn dư đã hết hạn hoặc xuống cấp do nhiệt độ lạnh không đạt yêu cầu bởi thiếu tủ đông lạnh sâu.
Các quan, vốn lắm “mưu vc”, liền cho “đóng dấu mới” lừa dân, sửa lại ngày để cập nhật Exp. Date trên bao bì của vaccine tốt đã vừa hết hạn!
Thật đúng là…+ xản !
Oh, you hổng phải là Cộng Sản ?
Bi giờ Hà Nội mà đánh Mỹ, chắc như ccc. Nguyễn Tuân phải bẻ cong ngòi bút của mình lun mới viết được “WTF happened!”
Khà khà khà, Muỏi oi là Muổi, anh Phét nói điều này từ lâu rùi. Nếu lich sử lặp lại mà thèng bu MẼO giở trò du côn như thời NIXON và JOHNSON thì Việt Công chúng anh sẻ hiệu triệu dân VIET NAM làm lại lich sữ chứ dân VN có ngán ai bao giò huh?.
Đàng hoàng thì Viet Cộng chúng anh đàng hoàng lại mà DU CÔN thì chăc chắn Viet Cộng sẻ chửa trị thói DU CÔN của bất kỳ thèng nào DU CÔN. hiẻu chưa hiẻu chua, kakakkkak
Dmcs
Dm mày dog phét sủa bậy
Dog csvn quỳ lạy xin Mỹ để được công nhận là nền kinh tế thị trường. Vì sao?
Dog phét giải thích được không?
Sao dog csvn hèn hạ, đi van xin để quốc Mỹ giết 2 triệu dogs csvn?
Sao dog csvn không embargo cho chết cha để quốc Mỹ?
Hay oánh bom khủng bố dân Mỹ như trước 75 với dân VNCH?
Tức cười thật ! Một thăng ác ôn, lưu manh chuyên nghiệp, từng vênh váo khoe là nó theo XHCN, nay lại nằng nặc đòi ” đế quốc Mỹ” công nhân nó là kinh tế tư bản !
Vẫn biết cái lưu manh và lươn lẹo là bản chất của lũ ăn cướp, song lần này thấy trơ trẽn quá. Đúng là cái mặt nó đã thành cái thớt ! Đừng bao giờ cho thằng lưu manh này cái gì nó muốn !
Việt Nam muốn Hoa kỳ và các quốc gia dân chủ, văn minh giàu mạnh trên thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường thì đơn giản thôi: thứ 1, dẹp bỏ ngay cái XHCN; thứ 2, đổi tên nước thành VNCH; thứ 3, là dẹp bỏ cái tên TP.HCM và lấy lại tên TP.Sài Gòn; thứ 4, là dời thủ đô về Sài Gòn nếu làm được như vậy thì lập tức sẽ được cả cộng đồng thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường và Hoa Kỳ sẽ giúp lấy lại ngay 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà bọn trung cộng bành trướng Bắc Kinh đang cướp bóc
Việt Nam là nền kinh tế thị trường …………. giống như China!
Mỹ hãy quên Việt Nam đi nhé.
Hơn 30 nhà lập pháp Mỹ lập luận rằng Việt Nam không đáp ứng các yêu cầu về thủ tục để thay đổi tình trạng và cho rằng việc cấp quy chế này cho quốc gia Đông Nam Á sẽ là “một sai lầm nghiêm trọng.”
Việt Cộng là cửa hàng mạo-hóa của Tàu Cộng.
Mặt hàng nào của Tàu Cộng mà bị Mỹ đóng dấu NO thì bọn nó đưa sang cho cửa hàng mạo-hóa Việt Cộng xữ-lý.
Cửa hàng mạo-hóa VC sẽ thay-đỗi nhãn-mác và xác-nhận xuất-xứ VN, xóa hết dấu-vết made in china.
Sau đó bọn nó xuất sang Mỹ và Châu Âu.
Sao thằng cộng sản to mồm “chống Mỹ kisu nước” nay lại cứ lải nhải xin Mỹ công nhận nó là Tư Bổn ? Quá tức cười và nhục cho bọn mặt mo !
Có lẽ Đảng bít nhục nên đã cho Võ Văn Thưởng zìa hiu non . Rất tốt!
Hahaha, giờ này Mẽo nó khôn hơn gòi . Khi nó giở trò du côn ra, methink its a tad too Đamn late
“Đàng hoàng thì Viet Cộng chúng anh đàng hoàng lại mà DU CÔN thì chăc chắn Viet Cộng sẻ chửa trị thói DU CÔN của bất kỳ thèng nào DU CÔN”
How about nó sẽ đàng goàng với tụi bay, để khi tụi bay đinh ninh nó đàng goàng, lúc đó nó mới ra tay cứa cổ Đảng ?
Có cần chờ nó lộ mặt du côn để Phét có thỉa du côn lại với tụi nó ?
Dmcs
Dm mày dog phét sủa bậy
*** Hồ Chó minh 03/04/2024 at 17:31
Dmcs Dm mày dog phét ngu Dog phét sủa = Ai làm mất thì kẻ đó phải chịu trách nhiệm muon đời thiên cổ hiểu chưa hieu chưa
Ah vậy dog csvn làm mất nước = hiệp định Thành đô
Mất đất biên giới = hiệp định biên giới
Mất biển= hiệp định vịnh Bắc bộ
Thế bao giờ dog csvn chịu trách nhiệm lấy lại?
Dm mày dog phét, chưa thấy ai ngu như dog phét
Tranh luận mà để bố dựa trên câu nói của con để đập lại con
Dog phét sủa = trời sanh ra dog phét, sao lại sanh ra Hồ Chó minh
Kaka Kaka nhục nhã lắm***
“ Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm! thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo.” Nhưng nếu “muôn năm” mà thêm cái dấu hô thành “muốn nằm” thì liệu có còn ai dám vung tay hô theo?
Sau 1954 là hàng triệu người Bắc di cư vào Nam. Cuộc bỏ phiếu bằng chân nó đã nói lên tất cả, và nếu không bị Việt Minh ngăn cản có khí tất cả dân Bắc chạy hết vào Miền Nam.
Nhưng những ai ở lại sống sau 1954 thì phải theo cộng sản hoặc ngậm miệng để sống. Không có của cải thì không lo bị Hồ cướp. Miền Bắc coi như sống trong ngục tù trong khi những người bỏ chạy vào Nam thì được hưởng tự do. Rồi năm 1975 lập lại, hàng triệu người Miền Nam tiếp tục bỏ cộng sản chạy tìm tự do. Và nay là năm 2024, cộng sản cai trị cả nước gần 1/2 thế kỷ rồi mà người dân nếu có cơ hội vẫn muốn từ bỏ cái thiên đường của cộng sản. Ngoài miếng ăn, tự do vẫn là niềm khao khát của cả dân tộc và đất nước mà chế độ cộng sản không bao giờ cho dân được hưởng.
“tự do vẫn là niềm khao khát của cả dân tộc và đất nước mà chế độ cộng sản không bao giờ cho dân được hưởng”
Chắc hông ? Thế mà có bít bao nhiêu người muốn cả nước được hưởng cái Tự Do ấy đấy . Lê Hiếu Đằng, Lê Thân, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh, Lê Hiếu Đằng … rùi bít bao nhiêu người nữa . Nên nhớ, để “giải phóng” được miền Nam, con số hy sinh phải (rất) cao . Có thỉa Võ Văn Quản của Luật Khoa nghĩ lính VNCH hổng có anh dũng, nhưng them put up quite a fight. Có nghĩa để thắng được, dân theo Cộng Sản phải chiếm đại đa số, 2/3 là ít . Và phải hy sinh ít nhứt 1/3, phần còn lại do Trung Quốc bù đắp . Và bi giờ, ngay cả những người như you, như gs Lê Xuân Khoa cũng mún bắt tay với Đảng & kiu gọi mọi người vượt wa lằn ranh Quốc-Cộng để duy trì cái Tự Do đó cho Việt Nam .
Chủ nghĩa Mác-Lê & Trung Quốc là sự chọn lựa của ĐẠI ĐA SỐ dân tộc tụi bay . Và đừng nói là đ có sự lựa chọn nào khác . Ngay cả bi giờ tụi bay cũng có lựa chọn khác nhưng vưỡn nằng nặc yêu Đảng, thì phải nói ccc gì nữa bi giờ ?
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt
Tiểu lị lụ mụ hầm cấy xạch
Làm Hán gian chó mà chẳng biết tiếng Hán cẩu và tiếng Việt nữa vời
Đm đi chết đi mày
Ngu mà cứ đòi lên nói xàm
Hắn là Hán thật, luôn trung thành với trung cộng, xúi csVN quay về với Tàu.
Hán gian là những thằng Tàu phản quốc, như Việt gian phản lại tổ quốc.
Chúng mày chỉ là những thằng Việt Cộng thui
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt muỗi Tàu
Mầy không nhớ người Nhật đã gọi bọn hán(g) cẩu chung bay là “Đông Á bệnh phu”? Nhục không?
Dmcs
Dm mày dog phét không dám trả lời
Kaka nhục nhã quá
hohui 08/04/2024 at 13:16
Phét ơi là Phét!
Trong ngày đấu tố, theo lệnh của “bác và đảng”….
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!
Phét lại quát:
– Thế chúng mày biết chúng mày có tội gì chưa?
(con) mẹ Phét mếu máo:
– Dạ thưa ông Phét – tội của chúng tôi là đã để ông Phét phải chui ra từ cái lỗ….L…ồn ạ!
“bác Hồ” vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp “Cách mạng thổ địa – long trời lở đất” của …chúng ta!
Tội nghệp (thằng) bố và (con) mẹ “anh Phét”!
Phản hồi
Hồ Chó minh 08/04/2024 at 13:36
Dmcs
Còn thiếu
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!= Trích
Dog phét = dm mày, tao không phải là con của mày, tao với mày là kẻ thù giai cấp, không chết không thôi, tao đít chết me mày thằng địa chủ gian ác. Dân quân đâu, lôi 2 đứa súc vật này đi bắn.
Khà khà khà, sắp toi’ kỷ niệm 70 năm ngày VIET CỘNG chúng anh chính thức…….BẠT TAI thèng mất dạy THƯC DÂN PÁP và củng làm một chấm mốc cho việc chấm dứt chế độ THUÔC ĐỊA ĂN CUÓP chó má của nó trên kháp thé giói.
Viet Gian Tay Sai cở như bác SÁO( Nguyen Van Lục) và đám BỒI TÂY có tiếc hùi hựi thế nào đi chăng nửa thì củng không tài nào cưởng lại đuọc lòng dân căm phẩn bọn thưc dân ngót 100 năm dày xéo trên đất VIET NAM.
Viet Gian Tay Sai củng như NGỤY COCK TÀN DƯ hằng ngày ra rả là VIET CỘNG giét bọn ác ôn, tay sai, Việt Gian , nhưng chưa có đúa nào dám nhắc tói một điều đó là NGÓT 100 năm cai trị dân Annam MÍT, thèng mất dạy PÁP đả giét bao nhiêu nguòi VIET NAM.
Chẳng có con số nào chính thúc ghi lại hay thông’ kê con số dân VIET NAM đả bị thèng mất dạy PÁP giét , nhưng chăc chắn rằng con số dó không nhỏ.
Thèng PÁP mồm loa mép giải khoe mẻ vói thé giói là NÓ đem văn minh tói để KHAI SÁNG dân VIET NAM. Nếu quả thưc như những gì bọn MẤt DẠY PÁP nói thì có lẻ dân VIET NAM củng chăng căm thù chúng tói tân xuong tủy như thế.
Để chứng minh điều này anh PHÉT lại quăng ra con số thống kê của bọn BRITISH tức là bon ANH tường thuật về kết quả và tỉ lệ phần trăm về GIÁO DỤC, Y TẾ , hai lẩnh vực nồng cốt cho viêc phát triển vùng miên.
britannica.com/place/Vietnam/Effects-of-French-colonial-rule
Những người biện hộ cho chế độ thuộc địa tuyên bố rằng sự cai trị của Pháp đã dẫn đến những cải tiến to lớn về chăm sóc y tế, giáo dục, giao thông và thông tin liên lạc. Tuy nhiên, số liệu thống kê do người Pháp lưu giữ gây nghi ngờ về những khẳng định như vậy.
Apologists for the colonial regime claimed that French rule led to vast improvements in medical care, education, transport, and communications. The statistics kept by the French, however, appear to cast doubt on such assertions.
Ví dụ, vào năm 1939, không quá 15% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường và khoảng 80% dân số mù chữ, trái ngược với thời kỳ tiền thuộc địa khi phần lớn người dân có trình độ đọc viết ở mức độ nào đó.
In 1939, for example, no more than 15 percent of all school-age children received any kind of schooling, and about 80 percent of the population was illiterate, in contrast to precolonial times when the majority of the people possessed some degree of literacy.
Với hơn 20 triệu dân vào năm 1939, Việt Nam chỉ có một trường đại học với ít hơn 700 sinh viên. Chỉ một số ít trẻ em Việt Nam được nhận vào các trường trung học dành cho trẻ em Pháp. Việc chăm sóc y tế được tổ chức tốt cho người Pháp ở các thành phố, nhưng vào năm 1939, cứ 100.000 người Việt Nam chỉ có 2 bác sĩ, so với 76 trên 100.000 ở Nhật Bản và 25 trên 100.000 ở Philippines.
With its more than 20 million inhabitants in 1939, Vietnam had but one university, with fewer than 700 students. Only a small number of Vietnamese children were admitted to the lycées (secondary schools) for the children of the French. Medical care was well organized for the French in the cities, but in 1939 there were only 2 physicians for every 100,000 Vietnamese, compared with 76 per 100,000 in Japan and 25 per 100,000 in the Philippines.
Dù tiến bộ kinh tế nào Việt Nam đạt được dưới thời Pháp sau năm 1900 cũng chỉ mang lại lợi ích cho người Pháp và một tầng lớp nhỏ người Việt giàu có do chế độ thực dân tạo ra. Đại đa sô dân Việt Nam đã bị tước đi những lợi ích như vậy bởi các chính sách xã hội do Doumer khởi xướng và được duy trì ngay cả bởi những người kế nhiệm cấp tiến hơn của ông, như Paul Beau (1902–07), Albert Sarraut (1911–14 và 1917–19), và Alexandre Varenne (1925–28).
Whatever economic progress Vietnam made under the French after 1900 benefited only the French and the small class of wealthy Vietnamese created by the colonial regime. The masses of the Vietnamese people were deprived of such benefits by the social policies inaugurated by Doumer and maintained even by his more liberal successors, such as Paul Beau (1902–07), Albert Sarraut (1911–14 and 1917–19), and Alexandre Varenne (1925–28).
Thông qua việc xây dựng các công trình thủy lợi, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long, diện tích đất trồng lúa đã tăng gấp bốn lần trong khoảng thời gian từ 1880 đến 1930. Tuy nhiên, trong cùng thời kỳ đó, mức tiêu thụ gạo của từng nông dân giảm đi dù không có sự thay thế bằng các loại thực phẩm khác. Những vùng đất mới không được phân phối cho những người không có đất và nông dân mà được bán cho người trả giá cao nhất hoặc tặng theo giá danh nghĩa cho các cộng tác viên Việt Nam và các nhà đầu cơ Pháp.
Through the construction of irrigation works, chiefly in the Mekong delta, the area of land devoted to rice cultivation quadrupled between 1880 and 1930. During the same period, however, the individual peasant’s rice consumption decreased without the substitution of other foods. The new lands were not distributed among the landless and the peasants but were sold to the highest bidder or given away at nominal prices to Vietnamese collaborators and French speculators.
Những chính sách này đã tạo ra một tầng lớp địa chủ Việt Nam mới và một tầng lớp tá điền không có đất làm ruộng cho địa chủ với số tiền thuê lên tới 60% hoa màu được địa chủ bán tại chợ xuất khẩu Sài Gòn. Số liệu xuất khẩu gạo ngày càng tăng không chỉ do tăng diện tích đất canh tác mà còn do sự bóc lột nông dân ngày càng tăng.
These policies created a new class of Vietnamese landlords and a class of landless tenants who worked the fields of the landlords for rents of up to 60 percent of the crop, which was sold by the landlords at the Saigon export market. The mounting export figures for rice resulted not only from the increase in cultivable land but also from the growing exploitation of the peasantry.
Anh Phét chỉ tạm trich dẩn sơ sơ nhu vạy mà thôi chứ mà nói tói tôi ác của bon. THƯC DÂN thì không lòi nào tả xiét. Bởi thé chỉ có trân ĐIÊN BIEN PHỦ là câu trả lòi CHINH XÁC NHẤT cho sự thông trị của thèng mất dạy PÁP.
Anh Phet thách đố tát cả nhửng thèng TAY SAI , VIET GIAN, BỢ ĐÍT PÁP cải lại những số liệu nêu trên.
Kỳ 65 năm có các phu nhân & con cái của các cố vấn Trung Quốc tham dự . Kỳ này 70 năm, hy vọng con cái họ sẽ có mặt tham dự thay mặt cho cha mẹ mình
Nên chăng Tp Hồ Chí Minh có thêm tượng Tướng Trần Canh ?
“Thèng PÁP mồm loa mép giải khoe mẻ vói thé giói là NÓ đem văn minh tói để KHAI SÁNG dân VIET NAM”
Oh, hổng phải vậy . Luận điệu này đầu tiên là do những “trí thức” mịa rượt nhà tụi bay nói, sau đó PAP nó mới nương theo . Chớ wa tới Algerie hay Angola, tụi nó xin lỗi chít mịa luôn . Chính vì vậy mà mấy nước đó được PAP viện trợ (nhân đạo) nhiều hơn . PAP chỉ được vài điều, – là cái nôi của chủ nghĩa CS thế giới, nên đảng CS PAP rất ủng hộ fong chào CM ở Đông Nam Á nói chung, và VN nói riêng . Sản sinh ra mớ trí thức như Nguyễn Ngọc Giao ủng hộ cách mạng nhà mềnh . Nội 2 chiện đó có thể cho PAP braggin rites về Khai Sáng, cộng với thủ đoạn tiên chiền Goebbelsian của trí thức nhà mềnh . Chớ wa mấy nước khác, nín thinh lun zìa chiện “Khai Sáng” này nọ
Dmcs
Dm mày dog phét lại tua DVD cũ
Bố nói con rồi, con phải so sánh với chế độ trước đó là nhà Nguyễn, hoặc so sánh cùng thời điểm với nước khác
Nghe thời sự bố nói
Tương lai mù mịt cho dân xứ lừa. Giới trẻ tuyệt vọng.
T chia sẻ góc nhìn của t về xứ lừa. Khác với bò đỏ nhìn xứ lừa toàn màu hồng rất đáng sống, với t nó đúng là tương lai sám xịt.
*Sinh đẻ nuôi con: k trợ cấp 1 đồng tiền sữa bỉm. Mang thai 8 tháng vẫn phải bốc vác để mưu sinh là đủ hiểu phúc lợi cho phụ nữ mang thai và trẻ em thế nào.
*Giáo dục:
-giáo dục nhồi sọ. Chạy thành tích, hối lộ, tham nhũng, bắt phải học thêm,…
-chúng m phải đóng tiền cho con từ mẫu giáo đến THPT hoặc Đại Học. Trong khi nước khác nó đã miễn phí giáo dục đến cấp 3 thậm chí ĐH. Thằng AE tàu còn miễn phí học phí đến cấp hết cấp 2.
-Đại học và chú phỉnh tuyên truyền lùa gà dân học theo trend: nano, hạt nhân, IT, AI, bán dẫn,… Tất cả đều thất bại.
*Nghề nghiệp:
-Phần lớn lao động là culi.
-Việc ít người nhiều, làm đồng lương rẻ mạt lương tối thiểu 22.5k mà thậm chí còn bị bọn chủ ép xuống 16 17k.
-Việc làm cho các kỹ sư ngành kỹ thuật quá ít so với số kỹ sư đào tạo ra hàng năm. Đất nước có sx, công nghiệp, khoa học, công nghệ gì đâu nên chả có việc mấy.
-Sau 30 tuổi là cty, chủ thuê, doanh nghiệp bắt đầu sa thải nhân viên: công nhân, văn phòng, IT,…
-Sau 30 tuổi xin việc rất khó kể cả công nhân hay văn phòng, gần như đéo xin được chỉ có đi chạy grab, làm bảo vệ, bốc vác, phụ hồ.
-Luật bvlđ như cc nên thằng chủ luôn tìm mọi cách để: trừ lương, ép tăng ca đéo trả tiền hoặc trả thấp, nợ lương, thực tập không lương.
*Kinh tế:
-Úp bô, lùa gà thành văn hóa xứ lừa.
-Nền kinh tế tệ hại nên k tạo nổi công việc và sản phẩm:
+Công nghiệp lót đáy ĐNÁ, nước thậm chí k CN hóa nổi đã vẽ vỡi CN hóa để an dân và cho bò đỏ thủ dâm từ nhưng năm 2000. Những nước bò đỏ hay mang ra thủ dâm là sắp vượt là Thái, Philippines đều là những nước CN mới nền CN sản xuất vượt xa xứ lừa.
+Khoa Học Công nghệ giáo dục yếu kém đầu tư ngân sách k bằng số lẻ súng nhỏ. Xếp hạng cống hiến khoa học và công nghệ cho nhân loại theo Good Country Index xứ lừa xếp thứ 128/163.
-BĐS phân lô bán nền bơm thổi giá lên tận trời làm giá thuê nhà xưởng, sản phẩm trở lên đắt đỏ. Dân làm cả đời đéo mua nổi nhà đất. Bọn bđs giết chết tương lai giới trẻ.
-Cơ sở hạ tầng yếu kém, logistic mạt hạng, nhiều trạm thu phí làm đội giá sản phẩm nhiều lần.
-Cứ 10 thằng vịt là lại có 1 thằng ăn theo chế độ. 3 thằng vịt làm nghề môi giới đất, xklđ cũng là lợi ích nhóm. 4 thằng vịt khác thì già k làm đc, trẻ chưa đi làm, hoặc làm nghề như kinh doanh dịch vụ, du lịch(gồm xe ôm, bán rau, bán thịt, tạp hoá, bán trà đá. Chỉ có 3 thằng vịt làm ra của cải vật chất như công nhân, nông dân, xklđ.
/hanoimoi.vn/11-trieu-nguoi-an-luong-ngan-sach-nao-kham-noi-433774.html
-Hầu hết GDP đến từ: FDI+BĐS>50%GDP,xk đĩ điếm culi, kiều hối, đào xúc múc bán.
*Mức sống:
-Ô nhiễm hơn cả tàu, rừng bị chặt phá hết, địa điểm du lịch đẹp bị phân lô bán nền bê tông hóa.
-Giá thực phẩm quá đắt so với mức lương, giá những sản phẩm khác cũng đắt k kém như:điện thoại, ô tô, xe máy.
-Vịt là nước đóng thuế cao top thế giới đến 19% GDP. Nên bọn óc bò bớt mõm nước ta đóng thuế ít, hay mở mồm là đã đóng đc đồng thuế nào chưa vì đm thuế nó đánh thẳng vào mặt hàng thiết yếu như:xăng dầu, điện, nước, thực phẩm,…
-Quan liêu, tham nhũng mỗi khi đi làm thủ tục hành chính đúng là mệt mỏi.
-Phúc lợi không có, bhxh đóng nhưng trả nhận lại đc mấy.
-1 năm có 40k con vịt tự sát, trong khi những nước bò đỏ chửi là áp lực tự sát nhiều là Nhật chỉ có 21k, Hàn 13k. Vậy nước nào áp lực hơn.
T sẽ k nói về ct vì chúng m đều hiểu nó như nào nói thêm lại thành dài quá.
=> K hiểu đáng sống chỗ nào nữa. T thấy nơi này giống như 1 cái trại súc vật, các con vật ngu thì tự huyễn hoặc bản thân trại súc vật quá tuyệt vời k cần biết ngoài kia ra sao. Con vật nhìn ra được cũng k có mấy con có thể chạy thoát được. Có những con vật đã ra khỏi trại súc vật đến thế giới con người cày tiền vẫn luôn thấy trại súc vật tuyệt thì k thể cứu nổi.
=>Tương lai xứ lừa sẽ về đâu khi 2036 là dân số sẽ là dân số già. 1 xứ mà chỉ chăm chăm bóc lột culi FDI, BĐS rồi khi dân số già sẽ nát cỡ nào t k tưởng tượng nổi.
=>Ai có cơ hội chạy thoát xứ lừa thì nên chạy sớm đi. Ai k chạy đc thì nằm thẳng,k đẻ, k kết hôn, 4 không, 10 không cho t.
“bò đỏ nhìn xứ lừa toàn màu hồng rất đáng sống”
Trích Tiến Sĩ Mạc Văn Trang “tôi sống với quê hương đất nước gắn bó cả đời quen rồi, không muốn rời bỏ đi. Tôi vẫn thường nói, đất nước mình đẹp lắm, bị tàn phá bao nhiêu mà vẫn còn đẹp; dân mình dẫu không ít thói xấu, tật hư mà sao thật dễ thương”
Khà khà khà, Em Cock ni viet lách chi mà luộm thuộm rứa hả COCK. Xem bẩn mắt lém , anh Phét hong bao giò đọc KÒM của COCK. Nhìn cách trình bày là biét em COCK ăn ở rất là dơ dzay’ , áo quần luộm thuộm , răng mồm cáu bẩn , dáng vẻ quê kệch , anh Phét bảo đảm như thế.
Viet lách lung tung không biét cách trình bày cho thứ tự , phân chia bố cục sao cho bài viét gọn gàng dể đọc.
Anh Phét có rat nhiều hoc trò , nhưng chưa bao giò tháy có em học trò nào mà viet’lách trình bày kiểu như em COCK.
Viết Kòm mà khong biét trình bày thì thôi đi……chết đi COCK , đúng là hèn truyen kiép , dốt gia truyền.
Him not Cock, him more like cock sucker
Học trò cũng có 3, 7 loại . Võ Văn Kiệt đó, thời chống Mỹ là học trò giỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Sau 85 nó đâm đổ đốn, thành loại lừa thầy phản bạn
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt muỗi Tàu English như cc nhưng hay sủa
You are not a cock, you are more like a cock sucker.
Nô lệ Hán cẩu là bọn việt cộng
Mày là Hán gian chó
Ngộ lẫm lị chánh hầy cẩu xồ hấy chảy
Tiểu lị lụ mụ xực lúc xạch
No Chinese and dog allowed
Ha ha ha
Só zi . Bổ túc (vô) văn hóa
Him no Cock, him a stable cock sucker
Dmcs
Dm mày dog phét
Dog phét không tranh luận được chạy tuột quần Kaka Kaka nhục nhã quá
Sau gần 100 năm có dog csvn = đó là bản cáo trạng tội ác của dog csvn
Ví dụ
Thiên đường XHCn cc gì mà phụ nữ có thai 8 tháng vẫn phải đi làm xây dựng, không có chế độ như VNCH
Ngạo nghễ quá Việt Nam ơi
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt muỗi Tàu
You’re a stable cock sucker.
No Chinese and dog allowed
Tiểu lị lụ mụ phúc cấy chảy
Xéo ngay
“Bài hát 1000 năm đô hộ Tàu nay phải đổi lời lại như thế nào cho thích hợp?”
May i suggest Kết Đoàn chúng ta là sức mạnh
Chủ tịch Trương Tấn Sang Nham hiểm đã ký sắc lệnh ngày 3/9 là ngày Bác Hồ chỉ huy dàn nhạc & hợp xướng tấu lên bài “Kết Đoàn” là ngày Âm nhạc Việt Nam
Chỉ mong đoàn kết đó, theo di chủc Bác Hồ, là trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lê, thay vì kiểu mafia bè phái như bi giờ
Dmcs
Dm mày dog redchina
Từ đầu năm tài chính hiện tại tới nay, tức từ Tháng Mười năm ngoái, CBP bắt gặp 21,000 công dân Trung Quốc tại biên giới phía Nam nước Mỹ gần San Diego, trong khi họ chỉ bắt gặp 18,700 công dân Mexico, theo dữ liệu CBP. Con số này biến Trung Quốc thành quốc gia có di dân vượt biên vô Mỹ ở San Diego nhiều thứ nhì, sau Colombia (28,000 người).
Việt Nam nên học Mỹ, mở đường biên giới . Lúc đó số người TQ wa Mỹ sẽ giảm
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt chỉ sủa bậy cho có sủa
Nếu con biết đọc những cái cần đọc thì con sẽ thấy dog redchina xây hàng rào, đặt máy quay 24/24 trên biên giới Việt Trung, có chỗ còn đấu điện vào hàng rào
Thấy dog redchina đang kêu gọi sanh thêm con, nhưng tụi Hán cẩu yếu sinh lý, nên dog redchina mời Bố qua để đít thoải mái đàn bà bên đó
Ah mày tự thú trước Nhật Thực là mày ở Việt Nam
Hy vọng điều mày nói là đúng, vì đứa con mà 2 vợ chồng mày nuôi là của Trần Nhật Quang
Việt Nam nên xóa bỏ biên giới trước, chiện Trung Quốc mún làm gì thì đó là lỗi của họ, miễn hổng phải lỗi của Việt Nam tụi bay là được
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt
Con phản biện ngu như dog
Bưng bô húp cháo như Hán gian chó mày mà xía vào đây hả thằng Tàu Chệt
No Chinese and dog allowed
Biến ngay đi chó
Biên giới phía Bắc được mở rộng để đón tiếp hàng nhập cảng từ Trung Quốc như một “con đường tơ luạ mới của thế kỷ này” cộng với đường biên giới mới của bản đồ được vẽ lại. Con đường tơ lụa nay được ủi phẳng mở đường cho xa lộ kéo dài từ Thái Nguyên, Việt Trì đi thẳng tới Hải Phòng, Hà Nội. Nhất là Khu kỹ nghệ Việt Trì (Viet Tri complex) trong kế hoạch 3 năm mà phần lớn vốn liếng do Trung Cộng đầu tư vào như đập thủy điện, nhà máy giấy, nhà máy mỳ chính, nhà máy thuốc trừ sâu, nhà máy cơ khí, nhà máy đường.Từ đó kích cầu các cơ xưởng kỹ nghệ địa phương, với 854 cơ sở, với đủ các nhà máy cùng với trang bị kỹ thuật, vốn liếng xuất phát từ Trung Quốc trải dài xuống các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn v.v… Người Pháp vừa xuống tàu về nước thì lại có người láng giềng đến thế chỗ
Nhà báo cách mạng Hoàng Tùng kể Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Pháp nói hổng nên đánh phụ nữ, dù chỉ bằng cành hoa . Hổ nào cũng là hổ, đều ăn thịt . Nhưng người được đưa ra đầu tiên là phụ nữ thì không nên . Nhưng vì Cố vấn Trung Quốc muốn làm thế để tỏ rõ quyết tâm, chỉ mún nói là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải làm nhưng không vừa lòng .
Tiến Sĩ Mạc Văn Trang mà ai có lương tri cũng phải kính trọng đã nói rõ, bài “Địa Chủ ác ghê”, tác giả là ai chả biết . Thiển nghĩ Tiến Sĩ Mạc Văn Trang đúng ở đây . Một ý nữa chứng tỏ sự không đồng ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác có dự, nhưng đeo khăn giấu bộ râu của mình .
Trí thức nước nhà, trong 1 bài vinh danh Nguyễn Đổng Chi, vinh danh 1 thế hệ trí thức đã xếp bút nghiên đi theo tiếng gọi của chủ nghĩa Mác-Lê cướp chính quyền & tham gia kháng chiến . Trở thành 1 tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi gương
Và họ noi gương thật . Chít cmnr
Dmcs
Hồi đó thằng Đặng Xuân Khu cũng phải đem bố mẹ nó ra đấu tố.
Chỉ thắc mắc là sao thằng Nguyễn sinh cung không đem họ hàng nhà nó ra đấu tố = đảng viên đi trước, quần chúng theo sau.
Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính hào đào máu dân
Cộng Sản còn gấp vạn lần
Toàn dân gẫy cổ, mát thân thằng Hồ…
Phét ơi là Phét!
Trong ngày đấu tố, theo lệnh của “bác và đảng”….
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!
Phét lại quát:
– Thế chúng mày biết chúng mày có tội gì chưa?
(con) mẹ Phét mếu máo:
– Dạ thưa ông Phét – tội của chúng tôi là đã để ông Phét phải chui ra từ cái lỗ….L…ồn ạ!
“bác Hồ” vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp “Cách mạng thổ địa – long trời lở đất” của …chúng ta!
Tội nghệp (thằng) bố và (con) mẹ “anh Phét”!
Dmcs
Còn thiếu
Phét hỏi (thằng) bố Phét (đang quỳ dưới đất):
– Mày có biết tao là ai không?
(thằng) bố Phét hổn hển:
– Dạ thưa ông, ông là con của chúng tôi ạ!= Trích
Dog phét = dm mày, tao không phải là con của mày, tao với mày là kẻ thù giai cấp, không chết không thôi, tao đít chết me mày thằng địa chủ gian ác. Dân quân đâu, lôi 2 đứa súc vật này đi bắn.
Nhà máy sợi Nam Định cũng chỉ hoạt động bình thường sau khi Trung Cộng tặng cho 500 máy dệt tự động vào đầu năm 1957. Nhà máy bột giấy (paper mill) cũng được Trung Cộng trang bị lại máy móc và nay hoạt động lại ở Thái Nguyên
Dmcs
Dm mày dog redchina
Dm mày thằng Tàu chệt muỗi Tàu
Nếu còn Pháp, còn Mỹ thì Việt Nam cần cc gì từ dog redchina
Trích GS Tương Lai, 1 trí thức chống Cộng đã bỏ Đảng “Vì tự do dân chủ mà nhân dân ta còn quyết tâm đánh lui mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng để chế độ dân chủ lan khắp toàn lãnh thổ ta”
Trung Quốc là điều kiện cần, tất nhiên chưa đủ để nền dân chủ đó thành công
Đúng là chưa đủ, nhưng nếu hổng có Trung Quốc, chắc chắn chả bao giờ đủ
Chỉ cần Trung Quốc đứng ngoài cuộc kháng chiến chống PAP & Mỹ của tụi bay thì mọi sự tan thành xít hít rùi . Cái sai của Đại hội Tours chỉ giới hạn miền Bắc vĩ tuyến 17 thui
Dmcs
Dm mày thằng Tàu chệt
Thằng Tàu chệt muỗi Tàu sủa = Chỉ cần Trung Quốc đứng ngoài cuộc kháng chiến chống PAP & Mỹ của tụi bay thì mọi sự tan thành xít hít rùi
Uh thế tại sao dog redchina can thiệp vào làm gì chuyện nội bộ của nước khác?
Bây giờ ai giao thiệp với Taiwan thì dog redchina sủa = không được can thiệp vào chuyện nội bộ
Dmcs
Dm mày dog redchina
Tao đít chết me mày dog redchina
Hãng viễn thông Bouygues Télécom của Pháp đã phải thay gần 3000 antenne của Huawei bằng antenne của Đức trên mạng lưới điện thoại di động trong năm 2022 vì vấn đề bảo mật.
Dmcs
Dm mày dog phét sủa bậy đi con
Đừng nghe cộng sản nói mà nhìn nó làm