Ký sự: Trường Sa ngày 14.4.1975 [3]

4

Tiếp theo phần I và II

 

3.  4 GIỜ 36 PHÚT SÁNG NGÀY 14.4.1975

Xuồng lướt nhẹ êm trên thềm san hô đang nông dần. Những mỏm san hô nổi trên mặt nước thềm san hô càng gần đảo càng lô xô nhiều hơn. Đáy xuồng đã sàn sạt trên cát san hô, không thể bơi xuồng được nữa. Lính bước ra khỏi xuồng, tháo hơi, dìm xuồng xuống vũng nước sát mép đảo. Vác đá san hô đè lên giấu xuồng chìm dưới nước. Cả mũi đi khom vượt qua bãi trống lắp xắp nước, đặt chân lên đảo nhận ra thảm cỏ mịn êm nhưng xác xơ vì cuối mùa khô. Vào đến cây dừa đầu tiên trên đảo, lính được lệnh mang hết vũ khí trên người và tìm chỗ cất giấu đồ dùng cá nhân trong bọc ni lông. Ép bụng xuống lớp cỏ khô, bò vào đảo, Cách nhận ra lá cỏ rất cứng và thoảng mùi thơm như có mật ở bãi cỏ đồng làng. Mấy con chim ngủ trên bãi cỏ thấy động vội bay vù lên cao kêu kéc! kéc! rồi lại nhẹ nhàng táp xuống vạt cỏ ngay cạnh chỗ nó vừa bay lên.

Được lệnh dừng lại chỗ mấy gốc dừa san sát, tán là đan nhau tạo ra vùng tối đậm trên đảo, Cách nhận ra mùi tanh của phân chim sống bằng cá biển. Một tổ ba người được mũi trưởng Hống cử bò sâu vào đảo trinh sát. Nằm lại trên lớp cỏ mỏng trong khóm dừa, Cách lại có cảm giác tròng trành như đang ở trên tàu. Lính đi biển gọi là trọng thái “say đất”. Nhờ có lớp cỏ mỏng trên cát và tán lá dừa trên cao, san hô không nóng bỏng như chỗ san hô trần trụi bị mặt trời thiêu đốt. Gió biển mơn man mát rượi. Không gian yên tĩnh đến hoang vắng. Cơn buồn ngủ ập đến và Cách thiếp đi. Cách bừng tỉnh dậy bởi những tiếng thét thất thanh rộ lên trong đảo “Việt Cộng! Việt Cộng!” Tán dừa, chòi quan sát, cột antel hiện lên trong quầng pháo sáng. Trong quầng pháo sáng rờ rỡ, Cách chợt nhận ra cả mũi chiến đấu nằm lồ lộ trên mặt cát. Đám cỏ mọc dày nhưng đã chết khô. Ngọn có khô lưa thưa không che được hàng lính nằm nối nhau trên có. Trống trải thế này thì lộ hết thôi!

Ấm ầm tiếng nổ của các cỡ súng rộ lên. Đạn rạch đỏ lừ và chiu chíu xé không khí ngay trên đầu Cách rồi lóp bóp cắm xuống nước ở mép đảo phía sau mũi chiến đấu. Tổ trinh sát bị lộ hay mũi của Quyền ở Nam đảo đụng độ? Tán dừa rải rác hiện ra lô xô, bồng bềnh chìm nổi trong quầng pháo sáng cho Cách cảm giác đảo khá rộng. Đảo rộng thì lính trên đảo phải đông, công sự nhiều và vững chắc. Thế mà ta chỉ có hai phân đội, hơn bốn mươi tay súng lên đảo! Trời lại sáng đến nơi rồi! Ở biển, ánh sáng ban ngày đến nhanh lắm. Bóng đêm là đồng minh, là sức mạnh của lính đặc công. Bóng đêm như bắt đầu rạn ra ở phía đông. Hai phân đội đặc công nhỏ bé, trần trụi phơi mình trên bãi san hô trống trải trong bóng đêm đang dần chuyển sang ngày.

Đánh tàu chiến Mỹ ở quân cảng Cửa Việt phải rút ra trong đêm nên phải kích nổ trước một giờ sáng. Ra biển Đông giành lại Trường Sa rồi ở lại nên sẽ nổ súng giữa ban ngày, ban mặt sao? Nhưng lính đặc công phơi mình trần trụi trên cát trống trải, trong tay chỉ có khẩu súng cá nhân và mấy gói thuốc nổ, làm sao đánh được quân cố thủ trong công sự giữa ban ngày?

Pháo sáng lại vọt lên. Tiếng la Việt Cộng! Việt Cộng! lại thất thanh. Các cỡ súng từ giữa đảo lại vãi đạn ra biển. Rồi mọi âm thanh bất thường lại tắt lịm trong nhịp thở sâu thẳm muôn đời của biển. Pháo sáng săm soi không thấy gì. Vãi đạn ra vừa để tự trấn an, vừa nghe ngóng phản ứng cũng không có động tĩnh gì. Hòn đảo lại lịm đi trong giấc ngủ muộn màng và mệt mỏi đêm về sáng.

Tiếng la hốt hoảng Việt Cộng! Việt Cộng chốc chốc lại rộ lên bộc lộ tâm thế người lính miền Nam giữ đảo. Quân cả sư đoàn, quân đoàn do những đại tướng, trung tướng dày dạn chiến trân đốc chiến. Súng đủ cỡ, đủ loại, đủ cả đại bác, xe tăng trên mặt đất, máy bay sấm sét trên trời mà Đà Nẵng, Nha Trang cũng vỡ trận thì số phận hòn đảo nhỏ nhoi chơi vơi giữa biển với dúm quân nhỏ bé trong mấy căn nhà tơ hơ trên cát làm sao trụ được trước đà tiến công như trẻ tre của Việt Cộng. Bất kì lúc nào Việt Cộng cũng có thể xuất hiện trên đảo. Âm thanh hốt hoảng Việt Cộng! Việt Cộng như là tiếng than Tuyệt vọng! Tuyệt vọng! nghe thật thảm thiết!

Sau dồn dập những đợt pháo sáng và ầm ầm vãi đạn, hòn đảo lại chìm trong tĩnh lặng mênh mông, như chìm vào giấc ngủ đang dang dở. Ở tư thế nằm bò trên cát san hô trong tĩnh lặng của đêm về sáng, nghe rõ được cả tiếng rào rạo rất khẽ và đều đều như tiếng cào cào gặm cỏ lá tre, trong Cách lại âm vang từ ngữ tiếng Việt yêu thương Việt Cộng! Việt Cộng! Cách bỗng thấy âm thanh tiếng Việt Cộng! Việt Cộng! gần gũi, thân thuộc quá. Tiếng Việt thân thuộc vô vàn yêu thương lại là kẻ thù, lại là mục tiêu phải tiêu diệt, lại là đích ngắm của khẩu súng trong tay Cách! Cách phải đánh bộc phá, xả đạn vào tiếng Việt thân thuộc đó! Sao cuộc đời nghiệt ngã, trớ trêu vậy!

Lại chợt nhớ đến lần Cách nép sát vỏ tàu chiến Mỹ neo trong quân cảng Cửa Việt nhìn lên tên Mỹ đứng trên sàn tàu, ngả người ra ngoài lan can, lia ánh đèn sáng loá như đèn pha xuống mặt nước cửa sông Thạch Hãn, miệng la Vi Xi! Vi Xi! Rồi các cỡ đạn thun thút vãi xuống sông. Cá giãy chết nổi lên trắng lờ lờ trên mặt nước và nghiêng mình loạng choạng bơi nhưng yếu ớt không thể bơi thẳng, phải lách mình lượn vòng tròn, lách đến cọ cả vào sườn Cách. Tiếng Vi Xi! Vi Xi! là tiếng nước ngoài xa lạ. Còn Việt Cộng! Việt Cộng! là tiếng Việt, là âm sắc, là ngữ điệu tiếng Việt vô vàn thương yêu của mọi người Việt Nam từ ngàn xưa đến muôn đời mai sau.

Cách bỗng thấy thật vô lí, thật đau lòng khi nghe tiếng người Việt giữ mảnh đất của cha ông người Việt để lại mà phải la lên hốt hoảng, thảm thiết, tuyệt vọng trước người Việt cũng có bổn phận giữ mảnh đất thiêng liêng đó. Có cách gì để người Việt ra Song Tử Tây trước giao lại cho người Việt ra sau giữ mảnh đất của cha ông mà không phải nã đạn vào nhau, không phải nã đạn vào tiếng Việt vô cùng gần gui, thân thiết và cũng vô cùng thiêng liêng nhỉ? Những người lính đặc công nước đột nhập lên đảo Song Tử Tây đêm nay có ai cùng suy nghĩ như Cách không? Nếu tất cả cùng nghĩ như Cách mới có thể tránh những người cùng nói tiếng Việt mà phải xả súng vào nhau, tránh được họng súng của người Việt xả đạn vào tiếng Việt thương yêu. Nhưng Cách biết rõ những người say chiến đấu như Quang đều đinh ninh rằng họ đang làm bổn phận đương nhiên của một dân với đất nước, đang thi hành sứ mệnh lịch sử đánh giặc cứu nước. Con người nào, ngôn ngữ nào trước họng súng của họ cũng là giặc, cũng là kẻ thù, cũng phải bị tiêu diệt không nương tay.

Đang miên man thì Cách được mũi trưởng cử đi bắt liên lạc với phân đội Hai ở Nam đảo. Lùi lại mép nước, Cách hạ thấp người, đi khom cho bóng dáng Cách lẫn vào bóng dáng những mỏm san hô lô xô nổi lên trên thềm san hô nông. Đến Nam đảo, vừa bò trên cát san hô mịn màng, Cách nhận ra những vệt lõm lờ mờ trên cát từ mép nước nối dài thành vệt vào trong đảo. Dấu chân! Lính giữ đảo đi tuần? Cách cúi sát mặt xuống cát. Lính đi tuần phải đi giầy và đi quanh đảo, dấu giày để lại phải song song với mép nước. Đây là dấu bàn chân trần, không phải dấu giày. Dấu chân đi từ biển vào đảo là cả phân đội Hai của Quyền đã vào đảo.

Cách yên tâm lần theo dấu chân trên cát. Trên nền cát phẳng trắng mờ, Cách thấy cộm lên những gờ tối thẫm. Đúng dáng nằm của lính đặc công! Cạch! Cạch! Cạch! Cách gõ ám hiệu trên báng AK. Cạch! Cạch! Tiếng đáp lại từ phía trước đúng mật khẩu rồi. Cách bò lướt lên gặp phân đội trưởng Cường. Gặp được cả Quyền, Cách được biết xuồng của Quyền bị lật. Khẩu cối tám hai bị biển nuốt mất. Bọc ni lông gói trang bị của lính cũng bị sóng biển giật khỏi tay. Bảy người bị sóng nuốt chửng lại lựa chiều sóng trồi lên mặt nước, thoát ra được. Giữ được thân xác, giữ được mạng sống nhưng trên người trần trụi, trong tay chẳng còn gì. Quyền còn khẩu AK quàng vào người nhưng còn mỗi băng đạn lắp ở súng. Cách đưa cho Quyền hai quả lựu đạn.

Cách vừa trở về phân đội Một thì hòn đảo nhỏ nhoi trong cơn sốt cao lại lên cơn co giật. Lại tiếng thét Việt Cộng! Việt Cộng! như tiếng kêu cứu tuyệt vọng! tuyệt vọng! Lại trắng trời pháo sáng. Lại rào rào mưa đạn trút vào bóng đêm. Đến lúc tổ trinh sát trở về mới biết trận vãi đạn cuối cùng trong đêm của hòn đảo Song Tử Tây như đàn ong bay túa ra khi tổ ong bị động vì chính tổ trinh sát đã đụng phải tổ ong.

Trinh sát bò đến bên căn nhà chìm, nền nhà tụt sâu thấp hơn mặt đảo đến gần một tầm người. Ép mình vào bức tường thấp nhô lên trên mặt cát, qua khoảng trống giữa tường và mái tôn, trinh sát đưa mắt nhìn vào trong nhà. Một ngọn đèn dầu vàng vọt đặt trên chiếc bàn sắt giữa nhà. Trên hai dãy giường lính sát hai bức tường dọc căn nhà, trinh sát đếm được mười bảy người lính ngủ trong tư thế sẵn sàng. Trong nhà khuất gió rất nồng nực nhưng chỉ có một người lính cởi trần, còn lại đều nai nịt bộ đồ lính trận, hai chân còn mang cả giầy. Súng để cạnh người. Số súng không để bên người thì khá lộn xộn. Khẩu trung liên để trên bàn sắt. Khẩu M79 treo trên tường. Giá súng chỉ có khẩu 12,7 li và mấy khẩu AR15.

Rời căn nhà chìm, bò trên cát san hô sau nhà sờ thấy bia chủ quyền rồi đến khoảng đảo lõm lòng chảo. Phía bên kia lòng chảo lờ mờ mái nhà tôn trên doi cát kéo về Nam đảo. Đến bia chủ quyền là đã đến giữa đảo, đã đi hết phạm vi mũi Một đảm nhiệm. Tổ trinh sát bò ra mép nước trở về thì đột ngột đụng hai lính miền Nam đi tuần. Tia đèn pin chiếu thẳng vào mặt tổ trưởng trinh sát Lưỡng. Thay vì loạt đạn rát rạt hạ gục tổ trinh sát thì chiếc đèn pin rơi bịch xuống cát cùng tiếng ú ớ nghẹn trong cổ họng của một thân thể đang bị đông cứng cả người, cứng cả chân tay.

Thoát chết nhờ mấy giây bất động của người lính đi tuần, tổ trinh sát lăn người thoát ra khỏi vị trí bị phát hiện vừa bật đứng lên chưa kịp ra đòn hạ đối thủ vì còn ở khoảng cách vài mét thì những tia lửa loé lên từ nòng khẩu AR15 của người lính đi tuần thứ hai. Không khí như tấm vải bị đường đạn xé rách, mảnh vải bị xé tung lên, tạt vào mặt, lướt trên cơ thể người lính trinh sát trần trụi, như hơi thở của thần chết phả âm khí lạnh toát. Đạn găm toé lửa ở mỏm đá san hô chỗ tổ trinh sát bị phát hiện. Loạt đạn của đồng đội đã giải thoát người lính miền Nam đang bất động. Hai người lính đi tuần kịp nhảy xuống đoạn hào dẫn vào căn nhà chìm, đánh thức cả hòn đảo giật mình thức dậy trong cơn co giật dữ dội. Lần này trong tiếng súng, trong tiếng la hét có cả tiếng đập tấm tôn, tiếng đập thùng phuy sắt và tiếng la hét Việt Cộng! Việt Cộng càng dồn dập, thất thanh.

Điều thấy rõ ở những đợt pháo sáng, những lần vãi đạn và tiếng la cảnh báo Việt Cộng dù hốt hoảng nhưng cũng bộc lộ sự cảnh giác cao độ, bộc lộ ý chí giữ đảo của những người lính đang làm chủ đảo. Tiếng Việt Cộng dù thất thanh cũng là ngôn ngữ Việt Nam khẳng định người Việt Nam đang có mặt trên hòn đảo Việt Nam, khẳng định lãnh thổ Việt Nam. Tiếng súng là lời cảnh báo mọi tham vọng lãnh thổ với Trường Sa rằng dù hai nhà nước Việt Nam đối kháng nhau, hai sức mạnh Việt Nam đang dồn hết sức loại bỏ nhau là việc nội bộ của người Việt Nam, không liên quan, không làm suy suyển ý chí bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của người lính Việt Nam.

Tiếng la Việt Cộng là nỗi ám ảnh thường trực với những người lính miền Nam đang giữ Trường Sa. Mỗi lần hét Việt Cộng! Việt Cộng! là một lần họ tưởng tượng thấy bóng ma Việt Cộng lởn vởn trong đêm. Nổ súng trước để giành thế chủ động nhưng rồi chẳng thấy phản ứng gì, họ phải nhận ra rằng hình bóng Việt Cộng chỉ có trong tưởng tượng, chỉ có trong nỗi ám ảnh của họ mà thôi, chỉ là thần hồn nát thần tính. Đến lúc Việt Cộng xuất hiện thật, hai người lính đi tuần đã tận mắt nhìn thấy họ, nhờ may mắn chạy thoát vào căn nhà chìm và nói lại điều vừa tận mắt nhìn thấy. Lại la hét báo động. Lại pháo sáng xăm soi. Lại nổ súng rát rạt, dù đạn vãi vô định nhưng tiếng súng đầy uy lực. Vẫn không có phản ứng gì thì lính trong nhà chìm lại cho rằng điều hai người lính đi tuần thấy cũng chỉ là sản phẩm của nỗi ám ảnh, chỉ là thần hồn nát thần tính. Bị ám ảnh cái gì thì sẽ tưởng tượng ra cái đó. Từ khi quân miền Nam bị mất Đà Nẵng, có đêm nào lính trên đảo Song Tử Tây không vài lần thấy bóng ma Việt Cộng lù lù trên đảo đâu. La hét. Quét pháo sáng. Xiết cò súng đến mỏi tay vẫn không thấy động tĩnh gì thì lại đành buông xuôi cho định mệnh vậy.

Trong yên tĩnh trở lại, các mũi chiến đấu lặng lẽ áp sát mục tiêu. Mũi bảy người của Cách trườn đến căn nhà chìm. Cách cùng hai người ém sát tường nhà. Bốn người dừng lại sau một gờ cát san hô, cách ba người phia trước chỉ hai tầm thân người. Hai mũi chiến đấu còn lại của phân đội Một, trong đó có Quang bò trong bãi dừa, giấu mình mép bãi dừa, đối mặt với bia chủ quyền và căn nhà chìm,  đợi tiếng súng lệnh của khẩu ĐKZ.

Trời đã ràng rạng sáng. Đêm càng về sáng, không khí trên hòn đảo càng dịu dàng, mát mẻ. Bị mặt trời nung cả ngày, qua một đêm, cát san hô đã thải hết sức nóng, gần sáng cát lại mát lạnh. Trong nhà chìm khuất gió cũng không còn ngột ngạt hơi nóng. Đêm về sáng gió mang hơi thở đêm của biển mơn man hòn đảo và biển rì rầm hát ru đưa hòn đảo vào giấc ngủ sâu. Càng về sáng sự yên tĩnh càng thăm thẳm càng mang lại cho những người lính miền Nam sự yên tâm rằng họ đã qua thêm được một đêm an toàn. Ban đêm là của bóng ma Việt Cộng. Ban ngày là của những người lính đang làm chủ Trường Sa. Dưới ánh sáng mặt trời, dù biển mịt mù hơi nước, chòi quan sát giữa đảo cũng phát hiện được mọi mục tiêu trên biển từ ngoài mười hải lí, bảo đảm cho những người lính giữ đảo sự chủ động, tự tin ngăn chặn kẻ đột nhập vào đảo từ ngoài thềm san hô nông. Hoả lực trên đảo đủ mạnh quét sạch những kẻ mon men đặt chân lên thềm san hô. Ánh sáng bình yên, ánh sáng sự sống đang trở lại với Song Tử Tây.

Đúng lúc người lính miền Nam thả mình vào giấc ngủ sâu nhất sau một đêm chập chờn, khắc khoải thì chớp lửa lớn nhoáng lên từ giữa đảo cùng tiếng nổ rung chuyển làm cát san hô bay rào rào. Khẩu ĐKZ ở hướng chủ công Đông Bắc của phân đội trưởng Quế đã lên tiếng. Quả đạn ĐKZ đầu tiên thổi bay mái tôn ngôi nhà chìm cạnh bia chủ quyền. Cách giật kíp nổ quả pháo tay, thả vào căn nhà chìm đã tốc mái. Bốn người lính đặc công phía sau cũng lao lên, tới tấp thả pháo tay vào nhà. Căn nhà chìm liên tiếp bùng lên những khối lửa. Một tấm tôn còn dính trên xà nhà vật vờ như lá cờ rách phất phơ trong chớp lửa. Trong ánh sáng đang ràng rạng trên đảo, cùng với những cột lửa khói cuộn lên, lính nhìn thấy cả những cơn lốc cát san hô. Những tiếng nổ rung chuyển. Tiếng cát bay ràn rạt như trong trận bão lớn. Những tiếng nổ trộn lẫn vào nhau, không phân biệt được đâu là tiếng nổ tấn công của lính miền Bắc, đâu là tiếng nổ chống trả của lính miền Nam. Tiếng nổ nào cũng mang đến cái chết. Mà trên đảo chỉ có người Việt với người Việt!

Căn nhà chìm biến mất trong lửa khói. Bỗng từ trong lửa khói một bóng người lao ra mép đảo liền bị mũi trưởng Hống phóng theo quật ngã và lôi đến trước phân đội trưởng Quế trong bãi dừa. Lạ thật, hàng chục quả pháo tay, mỗi quả nửa cân thuốc nổ dành cho gian nhà chìm nhỏ xíu mà trong nhà vẫn còn người sống sót. Thì ra gian nhà còn lối ngách được che bằng tấm bạt dẫn sang gian nhà chìm thấp hơn, mái tôn lợp ngang mặt đảo và gió vãi cát san hô phủ kín mái tôn nên tổ trinh sát không phát hiện được.

Người lính miền Nam bị bắt được phân đội trưởng Quế khai thác ngay, yêu cầu chỉ hầm ngầm, hầm chỉ huy. Thấy những người lính quần đùi, tay cầm khẩu AK, vẻ mặt bình thản, ánh mắt không vằn tia say máu chém giết và tiếng Việt của những người hỏi dù là tiếng quát nhưng vẫn là tiếng Việt thân thuộc như giúp cho người lính miền Nam có chút yên lòng. Người lính miền Nam từ tốn thưa với người chỉ huy quân miền Bắc:

  Thưa thầy Hai. Trên đảo không có lô cốt, hầm ngầm. Chỉ có hai nhà chìm. Chỉ huy ở nhà chìm lệch về phía Nam đảo và nhìn ra bia chủ quyền.

Trung uý phân đội trưởng Quế hòi quân số trên đảo và người chỉ huy. Người lính bị bắt đã đủ bình tĩnh, khai rành rẽ rằng trước năm 1975, đảo có một đại đội biệt động quân, hơn một trăm lính. Nhưng từ đầu năm 1975, đại đội biệt động quân phải rút về đất liền ném ra mặt trận. Thay bằng hai trung đội địa phương quân tỉnh Phước Tuy ra giữ đảo. Hiện nay trên đảo chỉ có 53 lính địa phương quân. Chỉ huy đảo là một thiếu uý và một chuẩn uý.

Nhà chỉ huy nhìn ra bia chủ quyền lệch về Nam đảo là mục tiêu của phân đội trưởng Cường, của mũi Quyền. Từ căn nhà chìm phía Nam đảo, đạn đang xối xả vãi ra. Đạn mười hai li bảy cày tung cát. Đạn AR15 vãi như mưa. Trong lúc quân miền Nam trong căn nhà chìm mé Nam đảo đang chống trả quyết liệt và quân miền Bắc ở hướng chủ công, lính đang rê mũi súng vào ngôi nhà chìm mé Nam đảo, đợi lệnh đồng loạt ra đòn quyết định thì từ đầu nhà chìm hướng Tây một tốp lính vọt ra chạy xuống mép đảo hướng về phía Tây Bắc, nơi trên thềm san hô nông nổi lên lô xô những mỏm san hô lớn kéo vào sát đảo, trong ánh sáng lờ mờ lúc rạng sáng đã nhận ra hai phuy dầu và chiếc bo bo nhôm gắn máy nằm trên cát san hô. Thuỷ triều đang lên. Nước biển đã lấn gần tới bo bo.

Tốp lính vọt ra từ nhà chìm mé Nam đảo đã đến chỗ bo bo và đang đẩy bo bo xuống nước. Một bóng lính đặc công nước từ Nam đảo bật lên vừa phóng theo tốp lính vừa quét những loạt đạn AK. Từ phía chiếc bo bo những chớp lửa vãi đạn chống trả loé lên, những loạt đạn rát rạt quất về phía người lính đặc công nước. Người lính quần đùi, tay ôm AK lăn đến gờ cát san hô. Một loạt đạn dài từ chiếc bo bo cày tung gờ cát san hô lên. Cát san hô tung lên, vãi trắng xoá trên người lính đặc công. Không thấy người lính đặc công bắn trả nữa.

Chiếc bo bo ở mép Tây Bắc đảo, ngay cạnh bãi dừa. Từ bãi dừa, Quang thấy rõ cuộc chiến diễn ra giành và giữ chiếc bo bo. Người lính đặc công chạy ra ngăn bọn lính cướp bo bo đã nằm bất động trên cát san hô, Chiếc bo bo đã được đẩy ra nổi trên mặt nước thềm san hô. Đám lính bám theo bo bo, đã có người ngồi trong bo bo. Quang quét loạt đạn AK vào tốp lính bám quanh chiếc bo bo. Tốp lính đổ rạp. Người chồng chất trên bo bo. Người sõng soài trên mặt nước thềm san hộ. Người nằm tênh hênh trên cát san hô mép đảo. Chiếc bo bo dập dềnh vô định trên mặt nước thuỷ triều đang lên. Từ bãi dừa, Quang phóng ào xuống định lôi chiếc bo bo về thì loạt đạn AR15 từ chiếc bo bo quất tới. Quang khựng lại và đổ vật xuống bãi san hô mép đảo. Lúc đó là bốn giờ ba mươi sáu phút sáng ngày mười bốn tháng tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi nhăm.

Trong ánh sáng đã lan rộng khắp mặt biển, chứng kiến người lính của mình đổ gục gần chiếc bo bo và nghe tiếng nổ chát chúa của các cỡ đạn từ nhà chìm xối xả bắn ra, trung uý phân đội trưởng Quế quát người lính miền Nam bị bắt:

  Thạnh! Mày có thấy gì không? Mày có thấy cả đống xác chết ở chỗ chiếc bo bo không? Còn đối đầu nhau còn rải xác chết khắp đảo cũng không thay đổi được kết cục đã được định đoạt rồi. Cả dải đất miền Nam rộng lớn, các ông tướng của mày còn không giữ được thì làm sao bọn mày giữ được hòn đảo lẻ loi, nhỏ bé này. Mày bảo đảo trưởng của mày buông súng ra đây nói chuyện với tao bằng lời, bằng tiếng Việt. Nói với nhau bằng súng đạn, bằng máu như vậy đủ rồi. Súng đạn không giải quyết được gì mà chỉ dẫn đến cái chết cho cả hai phía như đống xác chết ở chỗ chiếc bo bo kia kìa. Chết vậy uổng lắm! Đau lắm! Tao giao nhiệm vụ, mở đường sống cho mày và mở đường sống cho cả đám đang vãi đạn ra tìm cái chết trong nhà chìm đấy. Mày làm đi.

Giao cho tổ ba người của Cách dẫn người lính miền Nam bò lại gần nhà chìm, trung uý Quế cũng bò sát bên Cách. Dừng lại sau gờ cát san hô cách nhà chìm chỉ một tầm người, đợi trong nhà chìm ngớt đợt xối đạn, người lính miền Nam nhỏm lên hướng vào nhà chìm, cất tiếng lúc đầu giọng người lính miền Nam còn run rảy, yếu ớt, mỏng manh. Ngay sau câu đầu tiên run rảy xưng tên, người lính nhận ra tiếng nói của anh bị gió bạt đi. Thoáng im lặng, tiếng người lính bỗng mạnh mẽ, vang động, rõ ràng và tha thiết:

  Tôi là trung sĩ Thạnh xin có lời trình thiếu uý đảo trưởng. Quý thầy, a . . .a . . ., qúi anh giải phóng đã có mặt trên đảo, đã kiểm soát toàn bộ đảo. Nhà chỉ huy của thiếu uý đảo trưởng đã bị vây chặt, đã bị đặt thuốc nổ quanh tường. Quí anh giải phóng yêu cầu thiếu uý đảo trưởng buông súng, giao đảo cho quí anh giải phóng. Quí anh giải phóng sẽ không kích nổ những khối thuốc nổ lớn đã đặt quanh nhà thiếu uý đảo trưởng, bảo đảm an toàn cho thiếu uý đảo trưởng và binh sĩ của thiếu uý. Quí anh giải phóng yêu cầu thiếu uý đảo trưởng thực hiện ngay. Trung sĩ Thạnh trình thiếu uý đảo trưởng. 

Dứt lời, người lính miền Nam quay lại nhìn trung uý Quế như muốn hỏi tôi nói vậy được chưa thưa quí anh giải phóng. Giọng miền Nam trầm, ấm và chứa chất cả nỗi xúc động của người lính miền Nam làm cho Cách khấp khởi hi vọng rằng lời kêu gọi buông súng sẽ được đáp ứng. Trung uý Quế cũng nhỏm người lên hướng vào nhà chìm, nói to:

  Tôi là chỉ huy quân giải phóng ra thu hồi quần đảo Trường Sa. Yêu cầu quân đang đồn trú trên đảo Song Tử Tây buông súng ra trình diện, bàn giao đảo cho quân giải phóng.

Trong nhà chìm vẫn im phắc. Cả tiếng gió, cả tiếng sóng cũng lặng đi. Trong lặng lẽ chờ đợi bỗng những bàn tay trần xoè năm ngón tay giơ lên ngang đầu nối nhau ra khỏi nhà chìm.

Thay tiếng súng, tiếng Việt cất lên ở đảo Song Tử Tây sáng ngày 14.4.1975 đã chấm dứt mọi tiếng nổ súng đạn, đã dập tắt mọi cột lửa khói. Không có mảnh vải trắng buộc ở đầu súng giơ cao, chỉ có hai bàn tay trắng giơ lên trên đầu những người lính đi ra từ ngôi nhà chìm. Hai người đi đầu là thiếu uý đảo trưởng và chuẩn uý đảo phó. 

Rất muốn biết tên tuổi, mặt mũi thiếu uý đảo trưởng, chuẩn uý đảo phó và những người lính miền Nam lần đầu tiên Cách giáp mât, rất muốn biết trung uý phân đội trưởng Quế ứng xử thế nào với những người lính miền Nam buông súng giao lại đảo cho lính miền Bắc nhưng khi vừa nhìn thấy người lính đầu tiên giơ hai tay lên cao ra khỏi nhà chìm, Cách vội phóng xuống mé Tây Bắc đảo nơi Quang nằm úp mặt xuống cát san hô dưới những tia nắng đầu tiên khi mặt trời vừa nhô lên trên mặt biển. Thuỷ triều đã lên cao. Đầu Quang chìm trong nước biển dập dềnh, tóc loã xoã trong nước như một cụm rong rêu.

4.   BÓNG DỪA CỦA HÔM QUA. BÓNG DỪA CỦA NGÀY MAI

Nguyễn Hữu Cách dừng lời đã lâu. Cả Cách và tôi cứ ngồi lặng nhìn ra biển. Mấy cánh chim từ biển bay về lượn vòng rồi xà xuống đảo. Một đôi chim từ đảo vụt bay lên lại lượn vòng trên vòm trời có những đám mây nhận được tia nắng cuối cùng trong ngày, đỏ rực lên được dân gian gọi là ráng đỏ. Dân gian còn nhận ra điềm báo nắng mưa ở màu sắc của ráng mây “Ráng vàng thì nắng, ráng đỏ thì mưa”. Đảo đang vào mùa mưa mà ráng chiều đỏ rực thì đêm sẽ có mưa mát mẻ. Nhớ đến ba nấm mộ dưới bóng mát những tán dừa nhưng chỉ có nấm mộ mé ngoài, phía Bắc có tấm bia gỗ ghi tên liệt sĩ Tống Văn Quang, tôi hỏi Cách:

  Trên đảo chỉ có một tấm bia Liệt sĩ Tống Văn Quang. Như vậy rạng sáng 14.4.1975, ta chỉ bị mất một người thôi, phải không?

Cách nhìn những mầm cỏ mới lên xanh mướt trên cát san hô sau những trận mưa đầu mùa, nói:

  Ta mất hai người anh ạ. Cả Quyền nữa. Nguyễn Văn Quyền quê ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Quyền thuộc phân đội Hai của trung uý Cường, ở Nam đảo. Trước cả Quang, Quyền là người đầu tiên lao ra chặn tốp lính định cướp bo bo, bị họ bắn trả. Đạn găm vào bụng. Quyền bị thương được đưa lên trạm quân y dã chiến trên tàu chỉ huy của trung tá Mai Năng, được sơ cứu rồi đưa về Đà Nẳng nhưng chưa về đến Đà Nẵng, Quyền mất ngay ngày thứ hai trên biển. Mộ Quyền ở Đà Nẵng nên ở đây chỉ có mộ Quang.

Tôi lại hỏi:

  Còn hai ngôi mộ không có bia có phải mộ lính miền Nam bị bắn ở chỗ chiếc bo bo không?

  Quân miền Bắc cả đấy anh ạ. Kì lạ là lính miền Nam ở cả nhà chìm, ở cả chỗ bo bo chỉ bị thương thôi, không ai chết trên đảo. Số người bị thương được sơ cứu rồi đưa lên tàu về Đà Nẵng cùng với Quang. Căn nhà chìm mà trinh sát đã bò đến đếm từng mạng lính miền Nam và bọn em dồn dập thả thủ pháo vào nhà cũng chỉ đánh vào căn nhà trống không. Khi quả đạn ĐKZ thổi bay mái nhà, lính ở đó liền theo lối ngách rút hết sang căn nhà chìm thấp hơn, mái nhà ngang với mặt đảo. Nhà chìm là căn hầm chắc chắn và kín đáo lính trinh sát ta không phát hiện được. Năm người lính chạy ra bo bo đều dính đạn AK nhưng không ai chết. Họ cũng được quân y dã chiến trên tàu chỉ huy băng bó sơ cứu và được đưa về Đà Nẵng cùng chuyến tàu với Quyền. Tàu cũ, tốc độ chưa đến mười hải lí giờ. Vượt 480 hải lí phải mất ba ngày. Cũng như Quyền, ba người lính miền Nam mất khi chưa về đến Đà Nẵng.

Vậy hai người dưới nấm mồ vô danh là ai? Tôi đang băn khoăn tự hỏi thì Cách như đang bị câu chuyện cuốn đi, lại cho tôi biết rành rẽ:

  Hai nấm mộ chưa có bia ghi tên là lính ta tự sát đấy anh ạ. Chắc anh không thề ngờ rằng lính chinh chiến từ Bắc vào Nam, từ Cửa Việt đến Trường Sa, chiến đấu không sợ chết thế mà lại tự tìm đến cái chết lãng nhách. Không thể ngờ nên càng đau xót cho thân phận lính tráng anh ạ.

Lặng đi lúc lâu Cách lại rì rầm như khi rì rầm kể về cánh quân từ Quảng Yên cuốn vào Đà Nẵng rồi gấp gáp ra Trường Sa:

  Đã là lính, ai cũng hiểu được rằng trong chiến tranh phải xa nhà, phải hi sinh những đòi hỏi, những nhu cầu chính đáng của con người riêng tư như là lẽ đương nhiên. Hết chiến tranh rồi thì không thể hi sinh mãi. Ai cũng mong được về với cuộc sống đời thường của con người. Nhưng bọn em ở Trường Sa như bị bỏ quên. Vẫn đằng đẵng chịu đựng kham khổ, thiếu thốn như thời chiến tranh. Còn kham khổ, thiếu thốn hơn cả thời chiến tranh nữa. Vì thời chiến tranh còn được ở trong đất liền. Sau những trận đánh vờn nhau với cái chết trong căn cứ giặc lại trở về hậu cứ giữa làng quê. Dù bận rộn, căng thẳng đến đâu vẫn có buổi sáng chủ nhật ra ngồi quán nước bên đường tán chuyện với chị chủ quán có đôi mắt lúng liếng và ngắm dáng thôn nữ đội nón ra đồng, đạp xe đi học. Ngoài đảo không còn những trận đánh chui hàng rào thép gai, lách qua bãi mìn nhưng cuộc sống căng thẳng như một hàng rào thép gai, như một bãi mìn vô tận. Ngày nắng cháy, trần lưng làm trận địa phòng thủ. Đêm thăm thẳm trằn trọc nỗi nhớ, bần thần nỗi thèm khát. Thèm từ lá rau xanh. Thèm cả tiếng gà gáy. Lại càng thèm tiếng con gái êm ái, dịu dàng. Quanh năm suốt tháng chỉ có nước biển mặn chát, chỉ có cát san hô bỏng rát, chỉ có mấy thằng lính con trai đen nhẻm và trùng trục cơ bắp như nhau. Những cái thiếu tưởng như rất nhỏ nhặt, ngọn rau xanh trong bữa ăn, bóng dáng người đàn bà trong cuộc sống, cũng làm cho con người mất đi sự cân bằng, hài hoà, cuộc sống trở nên không bình thường. Mà sự mất cân bằng cứ kéo dài như vô tận làm cho lính trẻ mất lí trí, mất tỉnh táo đến quẫn trí. Quẫn trí nghĩ rằng người trong đất liền mải ngất ngây với chiến thắng mà quên những thằng lính trần trụi trên núm cát san hô nhỏ xíu như đang còn trôi dạt bơ vơ, vô định trên ngọn sóng. Là con người có quê hương, có gia đình mà cuộc đời những người lính ở Trường Sa cũng bơ vơ vô định như núm cát hoang vu trôi dạt bất định trên biển. Quẫn trí nên lính kê nòng súng vào người tự sát, anh ạ.

Lặng đi lúc lâu, Cách lại rì rầm:

  Giữa năm 1975 còn kiếm được mảnh gỗ, lấy mũi dao găm vạch tên Quang. Giữa năm 1976 không kiếm được vật liệu làm bia mộ tạm cho hai ông bạn lính nông nổi xấu số nhưng trong sổ sách của đảo có đủ hồ sơ mộ chí. Đơn vị đã gửi giấy báo tử về gia đình. Rồi gia đình sẽ ra đảo đưa hài cốt về quê. Nhưng lính trẻ, vợ con chưa có. Dù thương nhớ con, bố mẹ già cũng không thể sống mãi. Anh em dù ruột thịt cũng mỗi người mỗi phận. Nắm xương khô dù có đưa về quê, hồn ma lính trẻ cũng vẫn chỉ là cô hồn vất vưởng nên em thấy bọn lính chúng em không may chết ở đảo cứ để nằm ở đảo, hàng ngày có đồng đội gần gũi, có lẽ tốt hơn. Hơn nữa hòn đảo cần có tinh thần, ý chí người sống, cũng cần có cả hồn thiêng người chết. Có dương, có âm mới là thế giới con người, cuộc sống mới có hiều sâu và bền vững.

Rất bất ngờ về điều người lính trẻ quê làng đạo vùng biển Nghĩa Hưng, Nam Định vừa nói nhưng tôi vẫn im lặng nhìn những con sóng trắng ngẩn ngơ, lang thang vô định trên mặt biển đang tối thẫm dần ngoài khơi xa,. Bóng đêm đang chậm chạp lan trên biển. Gió đột ngột mạnh lên, ném cát bay rào rào. Cách lại lên tiếng:

  Anh có thấy cây dừa cụt ngọn ở khoảng trống giữa đảo không? Rạng sáng 14.4.1975 một quả đạn cối tám hai đã phạt ngang thân nó đấy. Còn hai cây dừa đổ rạp ở rìa Bắc đảo là bị trận bão tháng tám năm 1975 quật ngã. Đào hào chiến đấu, bọn em luôn gặp những gốc dừa lớn đã mục, vùi sâu trong cát san hô. Có gốc chỉ còn là một vệt đất mùn nâu xẫm, tơi xốp với vài mảnh thân dừa, vài sợi rễ chưa phân huỷ hết. Có gốc dừa bộ rễ đồ sộ, bền chắc của nó vẫn còn nguyên vẹn bám sâu trong cát san hô. Ở đảo em mới nhận ra cây dừa không phải chỉ cho hòn đảo trần trụi một khoảng bóng râm, cho tâm hồn lính một khoảng bình yên, thanh thản. Thân dừa vùi trong cát san hô còn cho hòn đảo có thêm sức sống. Chỉ có cát san hô thì cỏ cũng không sống nổi. Nhờ có lớp phân chim, cỏ mới bén rễ được. Rồi những trái dừa già từ những bãi dừa ven biển trong đất liền rớt xuống biển, được sóng đưa ra đảo, được cỏ giữ lại và nảy mầm bén rễ vào cát phân chim. Dừa sống che bóng mát cho đảo cát san hô bớt trần trụi. Dừa chết tạo ra lượng đất mùn quí giá cho màu xanh trên đảo. Nhờ có đất mùn thân dừa, đảo mới có màu xanh của cây bàng quả vuông, cây phong ba, cây sâm đất. Mùa mưa thứ hai ở đảo, mùa mưa năm 1976 , bọn em đã trồng được hơn năm trăm mầm dừa. Những chỗ có đất mùn của xác dừa, mầm dừa non lên xanh tốt nhanh lắm anh ạ.

Tôi đã thấy những cây dừa non xanh mơn mởn sau những trận mưa đầu mùa đang trải rộng màu xanh cho hòn đảo. Tôi cũng đã đứng bên thân dừa cụt ngọn như cái cột nhà bị mất mái, để lại một khoảng cát san hộ trống trải giữa đảo. Ngồi với Cách ở ghế đá trong chiều muộn, ánh sáng đang tắt dần, không nhìn thấy thân dừa cụt ngọn nhưng lời Cách nhắc đến cây dừa chết đứng vì bị đạn cối phạt mất ngọn rạng sáng 14.4.1975 tôi lại nhớ lời Cách kể về buổi sáng 14.4.1975, về những người lính trẻ đều là người Việt đổ vật ở mép đảo trong làn đạn của hai sắc lính vãi cái chết cho nhau, về khoảnh khắc người chỉ huy chiến dịch Trường Sa, trung tá Mai Năng đặt chân lên đảo Song Tử Tây rạng sáng hôm đó.

Sáng sớm ngày 14.4.1975, dòng lính miền Nam nối nhau ra khỏi nhà chìm vừa dứt thì trung tá Mai Năng bước lên đảo Song Tử Tây, cùng trung uý Cường đến bên người lính nằm gục trên cát san hô ở chỗ chiếc bo bo rìa Tây Bắc đảo. Ra lệnh chuyển những người lính bị thương, cả lính miền Bắc, cả lính miền Nam lên cấp cứu ở trạm quân y dã chiến trên tàu chỉ huy rồi đưa ngay về đất liền, trung tá Mai Năng đến bia chủ quyền giữa đảo, nơi trung uý Quế đang đôn đốc những người lính miền Bắc làm công việc phi quân sự hoá những người lính miền Nam bằng cách yêu cầu họ giao nộp hết vũ khí, trút bỏ bộ đồ lính và khai báo nét chính nhân thân của họ. Dẫn đến trước trung tá Mai Năng người lính miền Nam quần đùi, áo sơ mi trắng ngắn tay, trung uý Quế nghiêm giọng đúng quân phong, quân kỉ nhưng lời báo cáo thì chưa hẳn đã đúng điều lệnh:

  Báo cáo trung đoàn trưởng. Thiếu uý đảo trưởng quân miền Nam xin được gặp trung đoàn trưởng. Tay thiếu uý này rất được trung đoàn truỏng ạ!

Trung tá Mai Năng cho dẫn viên thiếu uý đảo trưởng về nhà chìm mé Nam đảo và người chỉ huy quân miền Bắc đã ngồi nói chuyện với người chỉ huy quân miền Nam trấn giữ đảo Song Tử Tây đến tận trưa. Bảo lính công vụ mang đến hai suất ăn trưa được nấu ở bếp trên tàu chỉ huy, trung tá quân miền Bắc cùng ăn bữa trưa dã chiến với viên thiếu uý quân miền Nam trên núm cát san hô còn hoen máu những đứa con yêu mang hai sắc lính của người mẹ Việt Nam.

Người lính đặc công đã tạo ra biển lửa đốt máy bay Pháp ở sân bay Cát Bi, Hải Phóng. Người anh hùng đánh chìm tàu chiến Mỹ ở quân cảng Cửa Việt, Quảng Trị. Người chỉ huy đạo quân ra nhận những núm cát san hô trong quần đảo Trường Sa của lịch sử Việt Nam, của cha ông người Việt để lại. Người lính đó năm 1975 là trung tá trung đoàn trưởng trung đoàn đặc công nước 126. Mười bảy năm sau người lính đó là thiếu tướng Tư lệnh binh chủng Đặc công. Tư lệnh binh chủng Đặc công Mai Năng về hưu năm 1998 nhưng vốn là lính đặc công nước của hải quân, dịp 14.4.2014, bộ tư lệnh Hải Quân đã tổ chức đưa người lính Mai Năng của sông, biển trở về với biển đảo Trường Sa, nơi ông và những người lính của ông đã góp thêm vào trang sử đương đại Việt Nam những dòng bi tráng. Dịp này cũng có người của xưởng phim Quân Đội mang máy quay phim theo người lính già Mai Năng ra đảo Song Tử Tây. Nhờ vậy tôi lại được biết thêm về chuyến đi biển cuối cùng của người lính sông biển Mai Năng.

Ngày 14 tháng tư năm 2014 lịch tây lại đúng ngày rằm tháng ba lịch ta. Mặt trăng tròn vành vạnh thả ánh sáng huyền ảo xuống biển. Trong ánh trăng, tán dừa lại thả bóng la đà xuống đảo Song Tử Tây. Trong bóng dừa xao động giửa đảo, trước những người lính trẻ quây quần chung quanh, người lính chiến trận Mai Năng lại bắt đầu bằng câu “Các đồng chí” như mấy chục năm trước ở quân cảng Đà Nẵng khi giao nhiệm vụ cho những người lính ra Trường Sa, ông cũng mở đầu như vậy.

  Các đồng chí. Tôi muốn kể với các đồng chí mẩu chuyện nhỏ về hòn đảo mà các đồng chí đang làm chủ. Dù chuyện cách đây đã mấy chục năm nhưng tôi vẫn để trong dạ. Chuyện chỉ đơn giản thế này thôi. Khi toàn bộ quân miền Nam đồn trú ở đảo Song Tử Tây buông súng, giao lại đảo cho quân miền Bắc, chấm dứt trận đọ súng ngắn ngủi nhưng cũng đủ đẫm máu, viên thiếu uý quân miền Nam thuộc quân địa phương tỉnh Phước Tuy mặc xà lỏn, đến gặp tôi, nói với tôi rằng chúng tôi đã nhận được lệnh từ chỉ huy và từ chính trái tim chúng tôi phải tử thủ bảo vệ đảo và chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện như vậy nếu là quân nước ngoài chiếm đảo. Tuy vậy nghe thấy tiếng các ông, tiếng người Việt yêu cầu buông súng, giao lại đảo cho người Việt thì tôi thấy không cần tử thủ nữa. Biết chắc là người Việt, là quân Bắc Việt, tôi đã ra lệnh buông súng. Khẩu súng từ tay người lính mang dòng máu Việt Nam không thể xả đạn vào đầu, vào ngực người lính cũng mang dòng máu Việt Nam. Chúng tôi chỉ buông súng trước người Việt. Chúng tôi còn sống thì không bao giờ để hòn đảo này rơi vào tay người nước ngoài. Mẩu chuyện chỉ có vậy mà tôi không thể quên. Như tôi không thể quên câu mẹ tôi vẫn nói đói cho sạch, rách cho thơm từ ngày tôi còn nhỏ. Người Việt là như vậy. Người Việt dù ở bên nào cuộc chiến cũng vẫn là người Việt. Chúng ta có được đất nước như hôm nay là nhờ lớp lớp thế hệ người Việt như vậy đó các đồng chí ạ.

Nhấp ngụm nước dừa trong chiếc li nhựa, người lính già Mai Năng nói tiếp:

  Chuyện trò với người chỉ huy quân miền Nam bảo vệ đảo Song Tử Tây tôi còn được biết rằng viên thiếu uý quân miền Nam lại là cháu gọi một đồng chí lãnh đạo quân chủng Hải Quân miền Bắc lúc đó là chú ruột. Thật trớ trêu, hai chú cháu cùng ý chí giữ gìn non nước Việt Nam lại ở hai chiến tuyến đối kháng tiêu diệt nhau. Khi những người lính miền Nam buông súng thì năm người lính đều là người Việt, ba người lính miền Nam, hai người lính miền Bắc đã bị những loạt đạn từ họng súng trong tay người Việt giết chết trên núm cát san hô của tổ tiên người Việt. Năm mươi ba lính miền Nam giữ đảo Song Tử Tây. Bốn mươi bốn lính miền Bắc ra nhận lại đảo. Cả hai bên cộng lại chưa đến một trăm người. Chỉ vài loạt đạn quất vào nhau mà năm người chết. Tỉ lệ chết chóc tới hơn năm phần trăm. Tính thêm cả gần chục người bị thương nữa, tỉ lệ thương vong lên đến hơn mười phần trăm. Chết chóc nhiều quá. Ngày lịch sử 14 tháng tư năm 1975 của đảo Song Tử Tây là như vậy. Ngày lịch sử 30 tháng tư năm 1975 của cả dải đất Việt Nam cũng hệt như vậy.

Người lính già dừng lời. Những người lính trẻ vẫn ngồi lặng. Tiếng tán dừa lao xao trong gió. Tiếng biển rì rầm xa thẳm. Chợt tiếng người lính già lại nổi chìm trong tiếng gió, tiếng biển:

  Sang năm mới tròn 40 năm ngày 14 tháng tư năm 1975 và tròn 40 năm ngày kết thúc cuộc chiến tranh trong lòng đất nước Việt Nam. Năm nay tôi tám mươi tư tuổi rồi. Sức khoẻ suy giảm từng ngày. Sang năm chắc gì tôi còn đủ sức khoẻ đi biển nên dịp mười bốn tháng tư và ba mươi tháng tư năm nay bộ tư lệnh Hải Quân ưu ái cho tôi có được chuyến đi dối già này, cho tôi có cuộc gặp này để tôi được nói đôi điều chân thật như những lời của một người già gửi gắm lại. Tôi xin cảm ơn bộ tư lệnh Hải Quân cho tôi có dịp trở lại hòn đảo nhỏ đã viết nên sự kiện 14.4.1975 và tôi cũng có nỗi áy náy xin được cảm phiền là khi tiễn tôi xuống tầu ở Hải Phòng ra Trường Sa, chính uỷ quân chủng Đinh Gia Thật nhắc đi nhắc lại rằng qua những câu chuyện truyền miệng của lính, lính trẻ hải quân đều biết tên tôi và đều mong gặp được người thật. Chính uỷ Thật bảo rằng thần tượng của tuổi trẻ trong xã hội hôm nay là những ngôi sao ca nhạc còn thần tượng của tuổi trẻ trong quân ngũ vẫn là những người lính trận mạc như tôi. Làm công tác chính trị, tư tưởng với tôi rồi chính uỷ Thật giao nhiệm vụ bảo tôi ráng đến tất cả các điểm có lính ta đang trấn giữ ở Trường Sa. Tôi đi một vòng Trường Sa rồi cuối tháng, lãnh đạo quân chủng sẽ đón tôi ở Sài Gòn trong bữa tiệc mừng hai sự kiện. Sự kiện 14 tháng tư và sự kiện 30 tháng tư năm 1975. Gặp các đồng chí là tôi đang thực hiện nhiệm vụ do chính uỷ quân chủng giao. Tôi sẽ ráng đi được đảo nào hay đảo đó. Còn chắc chắn tôi sẽ không về Sài Gòn dự bữa tiệc mừng hai sự kiện tháng tư năm 1975. 

Lặng đi lúc lâu, người lính trận mạc lại rì rầm:

  Ở hòn đảo nhỏ xíu này, ở mép nước lúc thuỷ triều lên phía Tây Bắc đảo, tôi đã chứng kiến những cái chết của người Việt ở cả hai phía cuộc chiến. Hằng năm, đến ngày mười bốn tháng tư và đến ngày ba mươi tháng tư, lại nhắc tôi nhớ đến những dòng máu người Việt đổ ra ở Song Tử Tây, những dòng máu người Việt đổ ra trên cả dải đất Việt Nam. Những dòng máu ấy cứ chảy mãi trong tâm tưởng tôi. Tôi xin thú thật rằng tôi không còn bụng dạ nào ăn mừng sự kiện đổ máu đó.

Phạm Đình Trọng

4 BÌNH LUẬN

  1. “Ở hòn đảo nhỏ xíu này, ở mép nước lúc thuỷ triều lên phía Tây Bắc đảo, tôi đã chứng kiến những cái chết của người Việt ở cả hai phía cuộc chiến. Hằng năm, đến ngày mười bốn tháng tư và đến ngày ba mươi tháng tư, lại nhắc tôi nhớ đến những dòng máu người Việt đổ ra ở Song Tử Tây, những dòng máu người Việt đổ ra trên cả dải đất Việt Nam. Những dòng máu ấy cứ chảy mãi trong tâm tưởng tôi. Tôi xin thú thật rằng tôi không còn bụng dạ nào ăn mừng sự kiện đổ máu đó.”

    Anh Trọng cứ viết giỡn chơi hoài! Ai làm cho đổ máu sao anh Trong không bàn đển?! Việt Nam Cộng Hòa có bao giờ tấn công tổng lực ra Bắc đâu?

    Không có có sự kiện 30/4, các đồng chí của anh làm gì có nhà có cửa mà thảnh thơi nghĩ về những dònh máu Việt đã đổ giống như anh hôm nay?

    Bất luận như thế náo đi chăng nữa, tôi vẫn muốn máu cộng ác các anh đổ xuống càng nhiều càng tốt, đổ cho tương lai Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi thêm sáng sủa!

    My mind is set! Kill the communist with all means.

    • Phạm Đình Trọng Viết ở đây được 156 bài, thế mày có viết được bài nào để được ĐCV đăng không?
      Đọc đoạn mày Trích thì thấy sự mất dậy của mày , mày bỏ đi câu mở bài đoạn kết
      “ Lặng đi lúc lâu, người lính trận mạc lại rì rầm:“
      Mày sủa “ máu cộng ác các anh“ ở số nhiều
      Nhưng khi mày sủa bằng English thì lại dùng số ít.
      Kaka Kaka
      Sao con ngu English vậy?

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên