Kỳ sự: Trường Sa ngày 14.04.1975 [2]

2
Đảo Trường Sa lớn

Tiếp theo phần trước

2.   ĐÊM TRƯỜNG SA

Như mọi đêm xuất quân vào trận đánh của đặc công, ba phân đội đặc công nước trung đoàn 126 trên ba con tàu nhỏ thuộc trung đoàn vận tải 125 rởi cảng Đà Nẵng ra Trường Sa cũng là đêm cuối tuần trăng, đêm đầu tháng ba âm lịch. Chỉ khác là trước đây xuất quân đều vào nhá nhem tối. Lần này lính bước chân xuống tàu xuất trận ra Trường Sa vào rạng sáng.

Ba giờ sáng ngày 11 tháng tư năm 1975, lịch ta là ngày 1 tháng ba năm ất mão, lính lặng lẽ tập hợp trên cầu cảng, Trước lúc rạng sáng là lúc bóng đêm dày đặc nhất. Ba giờ sáng, bóng đêm đậm đặc nhưng không một ánh đèn le lói. Đèn trên cảng, đèn trên tàu đều tắt hết. Không liên lạc vô tuyến điện. Tắt máy phát sóng vô tuyến điện trên tàu. Khi nào có lệnh mới được bật máy phát sóng. Không một tiếng người. Chỉ có tiếng gió và tiếng sóng. Từng phân đội hàng ngang, mũi chiến đấu hàng dọc từ trên cầu cảng lần lượt lặng lẽ xuống con tàu nhỏ không có số hiệu.

Con tàu đã từng chở nhiều chuyến vũ khí từ cảng dã chiến là bãi bần, bãi sú bờ biển Thuỷ Nguyên, Hải Phòng phóng ra biển quốc tế, chạy về phía Nam rồi trà trộn vào những con tàu đánh cá của ngư dân miền Nam cặp vào những bến bãi bí mật ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Phước Tuy, Cà Mau. Không số hiệu nhưng trong biên chế của trung đoàn vận tải 125, đó là những con tàu 673, 674, và 675. Những con tàu đã quen những hành trình bí mật. Lính đặc công nước cũng đã quá quen với bóng đêm trên sông biển. Ba con tàu âm thầm chở vũ khí từ Bắc vào Nam giờ lại âm thầm chở lính từ Đà Nẵng ra Trường Sa. Mỗi phân đội hai mươi hai người xuống một con tàu trước đây chở năm mươi tấn vũ khí. Ngoài con tàu chở hàng hậu cần, lính hậu cần bảo đảm đời sống cho lính chiến cũng san quân số ra ba con tàu.

Lưới đánh cá lờ mờ trắng giăng ngang, giăng dọc trên sàn tàu như cành lá nguỵ trang rung rinh  trên đầu, trên vai người lính bộ binh. Lính lách qua những vầng lưới, chui tọt xuống hầm hàng trước đây xếp vũ khí. Đi đánh tàu chiến Mỹ ở quân cảng Cửa Việt, lính bơi vo vài chục hải lí giữa mênh mông biển rộng, trời cao. Nay lính ra trận phải chui xuống hầm tàu kín mit, chật chội. Thành sắt. Đáy sắt. Trần sắt. Vốn tháo vát, khéo xoay xở, trong chiếc hầm sắt chật chội, lính soi đèn pin vẫn tìm được chỗ mắc võng tầng tầng, lớp lớp. Võng Cách mắc trên võng Quang. Hơi người nồng nực. Hơi dầu mỡ ngột ngạt. Hơi nóng hầm hập. Tiếng máy tàu thình thịch rung cả nhịp tim, gõ vào màng não. Không gian chật chội chao đảo, ngả nghiêng.

Trong hầm tàu lúc nào cũng tối âm âm, không thể nhận biết thời gian. Sau ba bữa lương khô trong hầm tàu, lính biết rằng đã qua được một ngày. Trong người đang cồn cào, cảm giác đang mơ hồ, phiêu diêu, lơ lửng thì được lệnh từng mũi chiến đấu lần lượt ra khỏi hầm hàng. May quá, tàu đã ra xa bờ và bóng đêm đã chùm xuống con tàu. Lính ngước nhìn sao trời và hít căng lồng ngực không khí phóng khoáng, mát lạnh của biển để có lại cảm giác thật, để biết chắc chắn rằng mình đang có mặt trên con tàu, trên biển cả. Nằm, ngồi trên nắp hầm hàng đón ngọn gió biển ùa tới thổi tung mái tóc, táp hơi nước mát lạnh vào má, vào cánh tay thì phần cơ thể tiếp xúc với tấm thép sàn tàu lại nhận ra sức nóng của thép. Thép tàu bị mặt trời nung cả ngày, đến đêm vẫn còn nóng âm ỉ. Không nằm được, đành gấp tấm tăng thành nệm dày cách li với sàn thép nóng, ngồi nhìn vào bóng đêm trên biển.

Bất chợt gió mạnh lên. Đang sung sướng đón những cơn gió mát ùa đến thì mưa sầm sập trút xuống. Mưa đuổi, lại phải chui xuống lò nung dưới hầm hàng. Mưa như gõ trống trên sàn tàu ngay sát đầu. Mưa làm cho sức nóng thoát ra khỏi tấm thép sàn tàu, toả sức nóng vào hầm. Hầm tàu càng ngột ngạt. Mưa kèm theo gió. Gió dồn sóng biển dựng lên. Chiếc hộp thép lèn chặt người bị tung lên ngọn sóng rồi ném xuống chân sóng. Mấy năm vùng vẫy, ngụp lặn trên ngọn sóng, lần đầu tiên Cách bị say sóng. Người Cách như một cái ống rỗng đang bị lôi lộn ngược từ trong ra ngoài. Ruột gan muốn đẩy cả lên cổ. Trong ruột có gì muốn nôn hết ra cho nhẹ để ruột gan lại lộn trở vào nằm yên chỗ cũ mà không làm sao nôn được. Đầu váng vất và nặng trịch như có khối đá trong đầu. Người rã ra.

Có bóng đêm xoá hình bóng, linh được thoát khỏi hầm tàu thì mưa lại dồn lính xuống hầm. Ngày lại đến. Lại phải giấu mình dưới sàn tàu. Trong hầm tàu lúc nào cũng tối âm âm nên Cách không còn phân biệt thời gian sáng trưa chiều tối. Đã hai lần Quang hỏi Cách có ăn gì không, Cách đều lắc đầu. Trong hầm tàu lại chộn rộn lên khi từng mũi chiến đấu lại được lần lượt thay nhau lên boong tàu vận động chân tay và hít thở không khí nhẹ nhõm trên biển thì Cách biết rằng lại qua thêm một ngày, bóng đêm lại trùm xuống biển, lính mới được ra khỏi hầm hàng, lẫn vào bóng đêm. Thế là tàu đã chạy được ba ngày, hai đêm rồi. Đêm thứ ba sẽ là đêm tiếp cận đải. Đến giờ Cách mới thấy đói. Nhưng khi Quang rót nước ở bi đông vào túi gạo sấy và đưa cho Cách, ngửi mùi gạo sấy nhạt thếch, Cách lại buồn nôn.

Quang đưa Cách lên boong tàu. Không gian thoáng đãng, khí trời trong lành làm cho Cách tỉnh táo và khoẻ khoắn ra. Quang xin cho Cách một ca cháo nóng ở nồi cháo của thuỷ thủ tàu. Cháo ngon quá. Cách húp một hơi hết ca cháo. Nhưng vừa ăn xong, Cách lại nôn thốc nôn tháo ra hết. Suốt từ lúc say sóng, Cách cứ muốn nôn mà không nôn được nên trong người cứ nôn nao khó chịu. Có lẽ vì trong bụng không có gì để nôn. Giờ có cháo, nôn được rồi. Tuy tiếc ca cháo nhưng thấy người dễ chịu hẳn cũng đáng để đánh đổi ca cháo.

Trời đêm đen thẫm, nặng trĩu, không một vì sao. Gió mát lạnh. Nhưng cơn mưa đầu mùa đã giăng mịt mù trên biển. Trời này sẽ còn mưa nữa. Mưa đi liền với gió mạnh, sóng lớn và lại phải chui xuống hầm ngột ngạt, lại say sóng đến mệt lử. Thôi kệ! Hãy cứ biết trời đang tạnh ráo, biển đang dịu dàng, êm ả. Đang được ở trên boong tàu. Đang được hít thở khí trời tươi rói. Cách đứng dậy, vươn vai, thở thật sâu và bảo Quang:

  Khoẻ rồi! Khoẻ rồi! Chiến đấu được rồi!

Quang bảo:

  Mày nhịn đói suốt từ hôm qua đến giờ, lấy sức đâu mà chiến đấu. Nếu không ăn được cơm gạo sấy thì cố ăn gói lương khô.

Cách lắc đầu:

  Tao cũng thấy đói nhưng lương khô và cơm gạo sấy thì không sao nuốt nổi. Có cố nuốt cũng lại nôn ra thôi. Thấy đói là cơ thể đã quen dần với sự nhồi lắc trên tàu, đang trở lại bình thường. Để cơ thể làm quen được với sự vần vò của sóng, trở lại bình thường hẳn đã, ăn vào mới giữ lại được.

Quang đi vào gian buồng thuỷ thủ ở cuối tàu. Lát sau Quang ra, đưa cho Cách ca mì ăn liền nóng hổi. Ngửi mùi mì nóng đã thấy tỉnh cả người. Vào đến Đà Nẵng, lính miền Bắc mới biết đến món cao lương mĩ vụ mì ăn liền. Anh nào cũng thích thú và luôn thèm thuồng mùi thơm phức và dù mùa hé nóng nực vẫn thích ca mì nóng ăn vào toát mồ hôi. Cách ăn hết ca mì còn thòm thèm nhưng lại xin nữa sao tiện. Lại còn say sóng nữa. Lại nôn hết ra thôi. Thôi, ăn tạm thế đã.

Quang mang ca đi trả trở về, trải cuộn bạt trùm nắp hầm hàng ra. Hai người nằm xuống tấm bạt trên nắp hầm hàng. Cách nghe mồ hôi dấp dính túa ra khắp người và nhận ra cơ thể đang hồi phục, hoạt động nhịp nhàng trở lại. Cách muốn gác đùi lên đùi Quang nhưng thấy Quang như đang trầm tư suy nghĩ nên Cách không dám phá dòng nghĩ ngợi của Quang. Chợt Quang bảo:

  Tao vừa nghe mấy tay thuỷ thủ nói rằng còn một ngày, một đêm nữa tàu sẽ đếnmục tiêu. Như vậy bọn mình còn phải chui xuống hầm hàng giấu mình một ngày dài nữa. Tao lo sức khoẻ của mày ngày mai còn gay go đấy.

Cách vắt chân đè lên đùi Quang như hai đứa trẻ chăn trâu nằm trên bãi cỏ quê nhà, nói:

  Đúng là ở trong hầm tàu người lử ra, như không còn chút hơi sức nào. Nhưng chui ra khỏi cái lò hơi ngạt ấy là người sẽ tỉnh lại và cầm đến khẩu súng là người sẽ khoẻ ra. Đáng ngại là cái chân của mày biết đâu lại dở chứng.

Quang giơ chân phải lên cao, liên tiếp gập và duỗi chân trên cao để chứng tỏ cái chân nổi nhọt đã lại vận động bình thường:

  Êm rồi. Đúng là do ý chí quyết định. Nếu tao chịu thua cái nhọt, quyết định theo cái nhọt chứ không theo ý chí của mình thì giờ chắc vẫn đang nằm trong viện quân y mùng năm tháng tám ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.

Quang hạ chân xuống, Cách liền đặt tay lên chỗ đùi nổi nhọt của Quang cảm nhận được cái tròn lẳn, săn chắc của một bắp đùi mạnh mẽ. Không cùng trung đội, tiểu đội, chỉ cùng đại đội, Quang vẫn là thằng bạn thân nhất của Cách trong đại đội. Bố mất sớm nhưng vẫn còn để lại ấn tượng cho Quang về người cha đau ốm quặt quẹo. Tất cả gánh nặng gia đình trút lên vai mẹ Quang. Dù bố còn sống, mẹ đã phải lo toan, cáng đáng mọi việc trong gia đình. Bố mất, mẹ càng cơ cực hơn. Vất vả lo cơm áo nuôi bốn chị em Quang. Thời nghèo đói khốn cùng, thiếu từ cái kim, sợi chỉ. Mọi nhu cầu cuộc sống đều phân phối nhỏ giọt từ trên xuống, đều chia chác theo thế lực. Có thế, có lực thì giành được phần hơn. Nhà không có người đàn ông phải chịu thua thiệt mọi bề. Hai chị đi lấy chồng. Quang đi bộ đội. Giờ ở nhà chỉ còn mẹ và đứa em gái.

Có lần Quang đã khoe với Cách là đứa em gái giống mẹ từ con người đến tính cách. Dáng người cao dỏng, thon thả. Nhanh nhẹn. Tháo vát. Chịu thương chịu khó. Đặc biệt là đức nhường nhịn. Nó lại hơn mẹ ở chỗ được học hành chu đáo. Ở miền quê nghèo, con gái được học hết trung học phổ thông là của hiếm. Quang chia sẻ với Cách về tình cảm Quang dồn cho mẹ và đứa em gái. Mỗi lần nhận được thư nhà, Quang đều cho Cách xem. Thường là thư của đứa em gái. Cũng có đôi lần mẹ Quang trực tiếp viết. Chắc mẹ phải cố gắng lắm mới viết được nửa trang giấy vở học trò bằng thứ chữ do phong trào bình dân học vụ cho mẹ từ thời mẹ còn trẻ. Người đọc phải vừa đọc vừa đoán mới nhận ra điều mẹ viết. Cách đọc thư của mẹ Quang cũng xúc động như đọc thư của mẹ mình.

Chiều ngày mười ba tháng tư, căn cứ vào thời gian vật vã trên tàu, vốn quen ước lượng không gian bằng thời gian, dù trong hầm hàng kín mít, lính vẫn xôn xao kháo nhau rằng tàu đã đến đảo Song Tử Tây. Cách lẻn chui ra khỏi hầm hàng, núp ở mũi tàu xác định hướng rồi nhìn về phía Đông. Quả nhiên thấy một vệt xám nhỏ trên mặt biển.

Bữa tối vẫn là lương khô ăn trong hầm tàu. Ở biển, ngày đến sớm và bóng đêm đến rất chậm.  Bóng đêm đã đậm đặc trong hầm tàu, lính được lệnh mang trang bị cá nhân lên sàn tàu. Bóng đêm đã trùm xuống biển. Con tàu không còn rung và không còn nghe tiếng máy tàu là tàu đã tắt máy, thả trôi, chỉ giữ lái để sóng đẩy con tàu từ từ rút ngắn khoảng cách với đảo. Cuối tuần trăng. Mặt trăng mỏng manh, mòn vệt vừa chợt hiện ra mơ hồ trên cao đã biến mất. La bàn và hải đồ giúp con tàu gióng hướng trôi về phía đảo và xác định được vị trí hòn đảo còn chìm sâu hơn ba cây số trong đêm tối.

Chợt từ trong bóng đêm phía đảo vút lên cao những đường sáng trắng. Những đường sáng dừng lại và bùng vỡ ra thành những quầng sáng leo lét, những chiếc đèn trời treo lơ lửng trên cao. Từ nơi vừa vọt lên những quầng pháo sáng lại rạch ngang mặt biển những đường lửa đỏ lừ. Lẫn trong tiếng sóng nhận ra cả tiếng đạn nổ lục bục.

Đòi hỏi của cách đánh đặc công là chân phải đến, mắt phải thấy, tai phải nghe, tay phải sờ được mục tiêu. Trinh sát đặc công phải nhiều lần luồn vào căn cứ giặc, đếm từng hàng rào, từng chòi lính gác, thuộc từng mô đất, từng doi cát, sờ tận tay chỗ gài thuốc nổ. Lần này mới chỉ xác định được trên bản đồ mục tiêu đảo Song Tử Tây còn cách ba kilomet. Còn lực lượng đang giữ đảo như thế nào, bố trí ra sao thì lính miền Bắc ra giành lại đảo hoàn toàn mù tịt. Điều hệ trọng nhất cũng chưa biết là lính miền Nam còn có mặt trên đảo không hay đã rút chạy, bỏ đảo hoang cho nước khác đến chiếm đảo rồi? Lính miền Bắc đụng độ với lính miền Nam ở Trường Sa thì cũng chỉ là việc nội bộ của người Việt, là cuộc nội chiến người Việt với người Việt từ trong đất liền đã lan ra tới Trường Sa xa tít ngoài biển Đông. Nhưng nhân cơ hội quân Việt Nam Cộng Hoà giữ đảo đang tan rã, quân nước ngoài đã lên chiếm Song Tử Tây thì quân miền Bắc Việt Nam lên giành lại đảo sẽ phải đụng độ với đội quân nước ngoài, sẽ là chiến tranh giữa hai quốc gia, sẽ là sự kiện quốc tế lớn, nghiêm trong và phức tạp, là điều tối kị. Cuộc chiến trong đất liền chưa ngã ngũ, lính đặc công nước đã bí mật, gấp gáp ra Trường Sa là để tránh điều tối kị đó.

Bây giờ những chùm pháo sáng giật mình ngơ ngác, những loạt đạn hốt hoảng từ Song Tử Tây vãi ra biển đã cho những người lính đặc công miền Bắc biết rằng những người lính của đội quân đang tan rã còn đang có mặt trên đảo. Cả đại quân đang ầm ầm sụp đổ thì số phận nhúm quân nhỏ nhoi, lẻ loi, đơn độc giữa biển cả cũng đã được định đoạt rồi. Chờ sự định đoạt bi thảm đến trong thấp thỏm, bất an, chốc chốc lính miền Nam trên đảo lại giật mình bắn những chùm pháo sáng run rảy để nhìn thấy sự định đoạt số phận đến, lại xối xả vãi những loạt đạn ra biển để tự trấn an rồi lại nín thở đếm từng phút, chờ đợi sự định mệnh của lịch sử đến với họ.

Con tàu lại được chỉnh lái lảng ra xa. Hai mươi mốt người lính dồn lại thành vòng tròn quanh đại đội trưởng Quế trên sàn tàu nghe phương án chiến đấu. Đại đội trưởng Quế ngồi trên gót chân, quì gối xuống sàn tàu, một tay cầm đèn pin chiếu xuống tấm bản đồ phóng lớn hình đảo Song Tử Tây, một tay chỉ trên bản đồ. Ngồi sát bên phân đội trưởng Quế, Cách căng mắt nhìn hình ba con tàu ở ba phía Đông Bắc, Nam và Tây Nam đảo và dỏng tai lên nghe phân đội trưởng Quế triển khai đội hình chiến đấu. Quang và Cách trong đội hình phân đội Một do phân đội trưởng, trung uý Quế chỉ huy rời tàu vào đảo từ phía Đông Bắc. Quyền trong đội hình phân đội Hai do phân đội trưởng trung uý Cường chỉ huy tiếp cận đảo từ phía Nam. Phân đội Ba của trung uý Minh được giữ lại làm lực lượng dự bị trên con tàu là sở chỉ huy của trung tá Mai Năng ở phía Tây Nam đảo. 

Trung uý Quế nhắc lính nhớ ám hiệu để nhận ra nhau. Đảo nhỏ, rộng chỉ hơn trăm mét, dài vài trăm mét. Hướng vào đảo khác nhau, đặt chân lên đảo là đối mặt, đối súng, nòng súng chĩa vào nhau ngay. Đêm tối không nhận ra nhau, quân ta rất dễ nã đạn vào quân mình. Lên đảo, phân đội Một sẽ chủ động bắt liên lạc với phân đội Hai. Lệnh nổ súng là tiếng nổ của khẩu ĐKZ ở hướng Đông Bắc của phân đội Một. Nhiều tình huống được phân đội trưởng Quế nêu ra. Cả tình huống bất lợi nhất là sóng dữ, xuồng cao su bị lật hoặc bị hoả lực trên đảo ngăn chặn, xuống không vào đảo được thì lính đặc công nước lại phát huy kĩ năng chiến đấu cá nhân trên sóng nước, bơi vo vào đảo, bám đảo chiến đấu. Ta đang ở thế chủ động và tinh thần áp đảo. Quân giữ đảo đang bị động, suy sụp và hoàn toàn không còn sĩ khí. Dù tình huống nào, quân miền Bắc cũng nắm quyền chủ động và chắc thắng.

Dù ngồi sát và chăm chú nghe những điều trung uý Quế nói nhưng Cách vẫn chưa thoát khỏi trạng thái lơ mơ, bồng bềnh. Cách chỉ nghe rõ được mỗi câu “Các đồng chí rõ chưa?” khi trung uý Quế chốt lại lời cuối cùng. Không nghe rõ từng lời nhưng hiểu được đội bố trí hình các hướng và mục tiêu của từng hướng, Cách muốn bật ra tiếng “rõ” nhưng họng khô khốc, không cất được thành lời. Cũng chỉ lác đác vài tiếng “rõ” thều thào, âm thanh vừa thoát ra khỏi miệng lính đã bị gió ào ạt tạt đến thổi bạt đi, chìm vào tiếng sóng. Phần lớn lính vẫn còn đang lử lả. Người lính bên cạnh Cách còn bò ra mép sàn tàu nôn oẹ. Cách thấy trí não mình đang tỉnh ra, đang hăm hở và chân tay đang muốn vận động. Có lẽ người lính nào cũng vậy thôi, đang rũ rượi vì một nỗi buồn, đang mệt mỏi vì sự cố bất thường trong cơ thể nhưng cầm đến khẩu súng bước vào cuộc chiến là bước vào sống chết, trước hết phải giành lấy sự sống cho mình thì mọi phiền muộn riêng tư, mọi uể oải của cơ thể cũng biến mất.

Trong lúc con tàu thả trôi vào sát thềm san hô nông thi lính làm những việc chuẩn bị cuối cùng trước khi vào trận. Mỗi người được phát hai gói mì ăn liền. Một thùng nước sôi được thuỷ thủ trên tàu khiêng ra đặt giữa sàn tàu cùng một túi ni lông đũa tre. Lính múc nước sôi đổ vào ca mì ăn liền, cầm đũa tre lùa mì vào miệng và sì soạp húp nước mì nóng, hít hà khoan khoái, thoả mãn. Không khí xôn xao, chộn rộn hẳn lên. Không còn ai ỉu xìu hoặc vật vờ vì say sóng nữa. Những ca mì ăn liền nóng hổi làm dịu lại nỗi cồn cào, lử lả của những người lính sau ba ngày, ba đêm trên con tàu nhỏ vật vã trên sóng.

Cách ăn hết ca mì thì Quang lại kiếm đâu được quả chanh khá to. Quang bóc vỏ chanh và tách ra hai múi chanh đưa Cách:

  Này, vitamine xê đây. Mấy ngày không có rau xanh, trong người cũng hốc háo như mấy ngày không thấy bóng đàn bà. Múi chanh là rau xanh đấy còn đàn bà phải đợi đến ngày về lại Đà Nẵng. Ăn tạm múi chanh đi cho đỡ háo.

Quang tách từng múi chanh, chia cho mấy người chung quanh. Mùi vị đàn bà chưa biết thế nào còn mùi vị múi chanh lúc này quả thật thú vị, tuyệt vời. Chưa bao giờ Cách được ăn múi chanh ngon đến thế. Giọt nước mang vị chua dịu, êm ái thấm vào họng đang khô cứng. Họng hết khô, môi mềm lại và Cách cũng hình dung ra môi đang chuyển từ màu tái nhợt nhạt sang màu hồng hào vốn có. Cảm giác trống trếnh và hốc háo cũng mất luôn. Đi nhận thêm trang bị, Cách thấy người chỉ còn hơi hiu hiu. Còn cảm giác đầu nặng, chân nhẹ nên bước đi chưa chắc chắn nhưng Cách thấy rõ bước đi đang mạnh mẽ, vững vàng dần.

Được nhận thêm lựu đạn, thủ pháo, yếm bơi. Lính bắt đầu nai nịt. Lại hiện ra hình ảnh quen thuộc người lính đặc công nước âm thầm ra vào quân cảng Cửa Việt. Đầu trùm mũ bơi. Áo ngắn tay. Quần đùi. Yếm bơi trước ngực để mang lựu đạn, thủ pháo, dao găm. Ở Cửa Việt, lính đặc công chân trần đạp trên cát. Ở Đà Nẵng ra Trường Sa, lính được phát đôi bí tất mới dày cùng với sợi dây buộc bí tất. Không phải chỉ chống lại góc cạnh đá san hô sắc lẻm như đá tai mèo, bí tất dày còn giúp lính cảm nhận được chỗ đặt chân và bàn chân có độ bám vào những mỏm san hô gập ghềnh. 

Hai tay ôm khư khư bọc ni lông căng phồng như nhện ôm trứng, Cách đứng bên mạn tàu đợi đến lượt xuống xuồng cao su. Trong bọc ni lông là súng, đạn, thủ pháo, tăng, võng, lương khô, túi cứu thương cá nhân, dép cao su, ca, bi đông nhôm đầy nước, bát tráng men, cả đôi đũa tre . . . Lính đặc công ôm bọc ni lông đứng bên lan can tàu như đàn nhện ôm trứng bám trên lưới nhện. Chợt tiếng Quang dội lên và chìm nổi trong tiếng gió vù vù cùng khuỷu tay Quang thúc mạnh vào sườn Cách:

  Tao đi trước đây, Cách!

Chuyển khẩu cối 82 xuống xuồng rồi Quang bám thang sắt tụt xuống. Chiếc xuồng cao su nhanh chóng mất hút vào bóng đêm.

Cách xuống xuồng thứ ba, xuồng cuối cùng. Không nhìn thấy mặt biển, chỉ nghe tiếng sóng ầm ào. Sợi cáp ni lông níu chiếc xuồng vào con tàu. Chiếc xuồng cao su vừa dềnh lên, hụp xuống. theo tàu, vừa bị sóng giằng ra xa nhưng được sợi cáp ni lông buộc vào tàu níu lại, chiếc xuồng liền bị sóng lật dựng đứng lên rồi ném lại tàu. Đây là đận gay go nhất của lính biển, là cung đoạn thử thách lớn nhất trên đường vào đảo.

Ở Trường Sa, đảo nào cũng nổi lên trên thềm san hô rộng và nông, còn chìm dưới mặt nước biển trên dưới một mét nước. Nước nông, tàu không thể vượt qua thềm san hô rộng để cập vào đảo, đành neo lại ngoài thềm san hô nông. Lính phải chuyển trang bị, vũ khí xuống xuồng cao su vượt qua bức tường sóng sôi sục chỗ mép thềm san hô, vào đảo.

Những triền núi nước nhấp nhô rùng rùng chuyển động mang sức mạnh của biển đang hăm hở trườn đến đảo bất ngờ húc phải mép thềm san hô nông, núi nước dựng lên thành bức tường nước sôi sục và trắng xoá. Bức tường nước đổ ập trở lại phía biển và bị dội ra biển thì triền núi nước sau trườn đến chặn đứng khối nước của triền núi nước trước đang dội ra biển. Những xung đột của những núi nước chuyển động ở mép thềm san hô không khi nào dứt, tạo ra những ngọn sóng trắng xoá cao ngất ngưởng, ầm ầm sôi sục bao quanh đảo. Những bức tường sóng lừng lững như vách núi dựng lên, ngăn chặn và nuốt chửng những vật thể nhỏ bé dưới ngọn sóng. Chiếc xuồng cao su mỏng manh vật vờ lao vào bức tường nước, chui vào hàm sóng nếu không biết chèo chống liền bị nhấn chìm, bị lật úp tức thì. Xuồng lật. Vũ khí đã văng khỏi xuồng thì đành gửi lại đáy biển. Người không có kĩ năng chống chọi với sóng dữ sẽ bị sóng ném vào ngầm đá san hô, bị cạnh sắc đá san hô cứa nát người, thân xác bị sóng đẩy ra biển mênh mông, đưa vào miệng những loài cá dữ.

Vượt được bức tường sóng bao quanh đảo ở mép thềm san hô chỉ trông vào hai yếu tố. Một là sóng không dữ quá. Sóng dữ quá thì neo tàu cũng bị sóng lôi đi, tàu không thả neo được, không thể thả được xuồng xuống biển. Tàu thả được neo thì vượt qua bức tường sóng chỉ còn là kĩ năng chèo chống chiếc xuồng cao su của lính đặc công nước. Cách vừa bước xuống xuồng cao su, một ngọn sóng táp nước lạnh vào mặt làm cho Cách tỉnh táo hẳn. Cách kéo sợi cáp ni lông cho xuồng áp sát tàu ở dưới thang sắt, đón cả mũi chiến đấu xuống xuồng. Bảy người đã san đều và ngồi cân bằng trong xuồng. Sức nặng bảy người làm cho xuồng đằm lại, bớt chao đảo và ổn định di chuyển theo sự chèo chống của bảy người lính đặc công nước. Sợi cáp ni lông neo xuồng vào tàu được thả ra. Chiếc xuồng cao su tách ra khỏi con tàu hướng vào đảo. Bức tường sóng trắng xoá và sôi sục ngay trước mũi xuồng. Chỗ bắt đầu bãi san hô nông đấy. Bảy người lính đặc công nước chỉ quen ra vào cửa sông Thạch Hãn lần đầu ra Trường Sa đã đưa chiếc xuồng qua trót lọt bức tường sóng mép thềm san hô trong đêm tối. Qua được bức tường sóng dựng quanh đảo là đã giành được phần thắng trong cuộc chiến với sức mạnh biển cà, cuộc đổ bộ vào đảo đã thành công. Chỉ còn cuộc chiến với con người trên đảo.

(Còn tiếp)

2 BÌNH LUẬN

  1. In case nobody cares, you betcha, đoản văn tả về 1 sự kiện trong cuộc xâm lược/giải phóng/thống nhứt -depend on who the Phúc you are- của bộ đội Cụ Hồ

    Again, như nhà văn Phạm Đình Trọng đã chỉ ra, “Người dân đều nhìn nhận cuộc chiến tranh đó với cảm hứng tự hào của người chiến thắng. Người viết sử, viết báo, viết văn và làm nghệ thuật đều thể hiện cuộc chiến tranh thảm khốc tương tàn đó bằng cảm hứng anh hùng ca”. Hy vọng ĐCV sẽ đăng những phần sau, để thấy rõ tinh thần nhân văn của VNCH, hễ thấy bộ đội Cụ Hồ là nhường sạch sành sanh . Và nhờ vậy, chúng ta có được ngày giải phóng/thống nhứt or wtfchamacallit

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên