Tưởng nhớ Tô Văn Lai. Một người bạn cùng lớp Đại Học Sư Phạm Triết Đà Lạt

16

Tôi viết với tư cách một trong những người bạn lâu năm của Tô Văn Lai về những gì còn nhớ trong tình trạng hiện nay bạn bè cùng lớp rơi rụng gần hết. Và chỉ còn dăm người còn liên lạc với nhau: Trương Đình Tấn, Phạm Phú Minh, còn có bút hiệu Phạm Xuân Đài, Nguyễn Văn Lục, Minh Pat Boon, Vĩnh Phiếu, Hồ Công Danh (ở trong nước). Tôi cũng xin nói thật là tôi e ngại viết về một người bạn đã thành đạt ở một tầm kích vượt trội từ trong nước ra hải ngoại. Sự e ngại ấy có cái lý của nó. Hễ một người có danh vọng, khi nằm xuống thì sẽ có nhiều người lên tiếng ca ngợi như một thứ ‘’Văn chương phúng điiếu”. Ca ngợi người mà chính là gián tiếp cho mình. Tôi cũng chẳng muốn làm công việc mà bạn mình không cần. Nhiều khi người chết cũng chẳng cần thứ gia tài đó. Vì thế, tôi ráng giữ giữ nguyên tắc cho riêng mình là: Bài học ngữ pháp về tang chế (Grammaire du Deuil). Như thế rồi thì tôi có thể thong dong viết về bạn mình.

Trước hết, xin nói qua về việc thành lập Đại học Đà Lạt nơi chúng tôi đã thành đạt. Nó chỉ bắt đầu từ niên khóa 1957-1958 với hai ban Đại học Sư phạm quốc gia: Triết Học và Pháp Văn. Cơ sở trường Đại Học Đà Lạt vốn là Trung tâm an dưỡng của Sĩ quan Pháp có tên là Camp Robert. Camp Robert có hai khu. Một ở phía trường Yersin, một phía trong rừng, xa thành phố, rộng 40 mẫu, nơi có 40 ngôi nhà lớn nhỏ. Nơi đây được gọi là Thụ Nhân (trồng người) đã đào tạo tất cả chúng tôi thành những trí thức miền Nam, đi gieo trồng môn triết học lan tỏa khắp các tỉnh thành miền Nam (Xem thêm đầy đủ bài của Đỗ Hữu Nghiêm (Kỷ niệm 10 năm Viện Đại Học Đà Lạt).

Từ cơ sở ấy, linh mục Nguyễn Văn Lập đã nhiều năm xây dựng và phát triển nên cơ ngơi ngày hôm nay. Nhất là khi mở thêm phân khoa chính trị, Kinh Doanh mà sỉ số sinh viên lên cả ngàn.

· Số giáo sư giảng dạy về môn Triết còn nhớ được

– Thật ra, việc học ra trường với thứ bậc cao thấp chẳng có gì để đáng nói. Chỉ cần chăm một chút là có thể đạt được. Sự thành công sau này chủ yếu là lúc ra đời. Việc học chỉ là giai đoạn chuẩn bị như bước nhảy vào đời. Nó giống như cái ván nhún trong hồ bơi (tremplin). Cái vấn đề không phải là cái ván nhún, mà là sự thao luyện giày công trong nhiều tư thế nhào lộn đúng chuẩn mực, để ngụp sâu và ngoi dậy. Sự thành công bao giờ cũng có giá phải trả bằng nhiều cách khác nhau.

Khởi đầu, tôi nhớ lại lớp Triết Đà Lạt có các vị giảng dạy sau đây. Về phía giáo sư người Việt: Ông Lý Chánh Trung, ông Trần Văn Toàn, ông Bửu Lịch, bs Đào Huy Hách, giám mục Hoàng Văn Đoàn (OP), các linh mục Bửu Dưỡng, Lê Tôn Nghiêm, Sư huynh Pierre Trần Văn Nghiêm Lasan.

Cung cách giảng dạy của giáo sư người Việt mỗi người một kiểu. Như Lý Chánh Trung, tiếng là dạy môn Đạo Đức học lại cố tình chệch hướng với: Bạo động và lịch sử. Ông vận dụng triết học cho một xu hướng chủ nghĩa xã hội không cộng sản. Trần Văn Toàn thì cố nhồi nhét triết học Karl Marx với ba tác phẩm: Hành Trình đi vào triết học, Xã hội và con người và Tìm hiểu Triết học Karl Marx. Bửu Lịch mới ở ngoại quốc về nói tiếng Tây như gió. Bs Đào Huy Hách thì vừa giảng bằng tiếng Tây, vừa dậm chân trên bục giảng nên chẳng nghe rõ được gì. Giám mục Hoàng Văn Đoàn để bộ râu như người ngoại quốc luôn có nụ cười hiền từ. Lm Bửu Dưỡng thận trọng và nghiêm chỉnh. Lm Lê Tôn Nghiêm dạy triết học Heidegger trước sự phá sản của Tây Phương như người mở đường, như kẻ gieo trồng mà không được mùa. Ngoài hai linh mục dòng Đa Minh (OP) là linh mục Alexis Gras cũng di cư từ Bắc vào Nam, ông là người xây dựng lên Câu Lạc Bộ Phục Hưng, trong đó sau này nhiều trí thức miền Nam từ đó xuất thân. Còn có linh mục Marie-Bernard Pineau, đẹp trai và ăn nói có duyên. Còn lại là phần lớn các linh mục Dòng tên, chạy trốn khỏi Bắc Kinh, khi Mao Trạch Đông lên nắm chính quyền vào năm 1949. Họ là hai người gốc Trung Hoa như Joseph Tchen, SJ và Mathias Tchen, SJ, C.Larre, SJ, Palacios , SJ, Raguin, SJ, Gaultier, SJ, người Pháp.

– Đây cũng là nỗi nhọc nhằn của chúng tôi khi nghe người Trung Hoa nói tiếng Pháp. Họ nói mà y như họ đang nói tiếng Tàu lổn nhổn, với giọng điệu lên xuống. Nỗi khốn khổ ít hơn khi nghe giáo sư Palacios, dạy luận lý, gốc Tây Ban Nha. Chữ o, chữ e, ông phát âm như tiếng Việt thật buồn cười. Raguin, SJ, người gốc Đức dạy môn triết học Ấn Độ- như một tỳ kheo thứ thiệt- một cách hồn nhiên và say mê. Gaultier, SJ dạy lịch sử triết học- một loại ông già gân kiểu cụ Trần Văn Hương- dạy một cách bài bản và nghiêm nghị, ít khi cười.

– Một vài kỷ niệm không quên về cha Đỗ Minh Vọng. Ông ngồi xe Lambretta, từ Sài gòn lên Đà Lạt trong bộ áo dòng màu trắng và có mặt vào buổi chiều chủ nhật để sáng thứ hai dạy học. Rồi cũng một cách như thế, quay về Sài gòn. Ông có thể đi máy bay như phần đông các giáo sư khác, nhưng ông đã từ chối để tiết kiệm cho Đại Học. Vậy mà buồn thay, giờ của cha Alexis Gras (tên Việt Đỗ Minh Vọng) sinh viên trốn hết, chỉ còn lại vài mống trong đó có tôi vì nể hơn là vì học. Ngài viết đầy bảng các chữ nho nào ai hiểu. Có lần, ngài khôi hài nói: ‘’Các anh mới đúng là những triết gia chân chính”. Nói chung, cái mà chúng tôi học được chưa hẳn là kiến thức, chính là sự say mê truyền dạy, thái độ sống và ứng xử khiêm tốn trí thức đáng kính nể, sự quảng bác về triết học.

– Nhắc lại như một hồi ức không quên mà anh em nhiều người cũng không còn nhớ.

– Có thể chính những đức tính đó, những gương mẫu đó của mỗi vị giáo sư đã làm hành trang cho chúng tôi- tất cả không trừ- để vào đời.

– Phần lớn thì giờ của tôi còn lại lên thư viện đọc và ở nơi đây có 5000 cuốn sách đủ loại. Đọc lõm bõm được chút gì hay chút ấy.

· Đời sống thường ngày của nam nữ sinh viên

– Có lẽ cũng nên dành đôi dòng về đời sống sinh viên như học hành, ăn ở, bạn bè trai gái vốn dĩ là lẽ thường. Nó biểu hiện nhiều cá tính ngay từ thời sinh viên. Nhà trường lo ăn ở nên có đại học xá dành cho nữ sinh viên và đại học xá dành cho khoảng 100 nam sinh viên. Học xá cho nữ sinh viên nằm trong khu phố xá của Đà Lạt. Nam sinh viên thì được ở trong các phòng rộng rãi, ngay trong khuôn viên Đại học bốn người một phòng, mỗi người có một bàn để học, một giường gỗ và một ngăn tủ áo. Mỗi tháng tiền thuê phòng là 200. Tiền ăn ở ngoài Học xá tại Lữ Quán Thanh Niên rất rẻ, chỉ 5 đồng một bữa. Tổng cộng chi phí là khoảng 350 đồng một tháng trong khi học bổng là 1500 đồng một tháng. Hoang phí một tý cuối tuần có thể ra phố ngồi cà phê Tùng. Đời sống sinh viên khá là thoải mái. Những sinh viên ở chung trong học xá dễ thân nhau hơn là với các sinh viên ngoại trú. Tôi còn nhớ các buổi học khuya đói bụng có các chú bé mang bánh mì còn nóng hổi vào bán trong học xá, 2 đồng một ổ. Tôi mua một ổ, trét ‘’bơ”, gọi là bơ cho sang chứ thật ra mỡ Shortening, mỡ còn sót lại từ cuộc di cư năm 1955 của viện trợ Mỹ. Tôi có một cái nhất hơn mọi người là ăn mặc tuềnh toàng, chân đi dép dù trời lạnh. Bên ngoài khoác một áo bốn túi nhà binh, rộng chùm xuống gần đầu gối. Cả năm tứ thời bát tiết chỉ có một cái áo choàng nhà binh không giống ai. Nó như cái style của sự bất cần trong cách ăn mặc. Sau này, tôi vẫn giữ cái phong cách đó khi đi dạy. Nó cũng gây phiền lụy không ít.

– Phần các sinh viên khá giả hơn ở ngoài, tự do hơn. Họ ăn mặc cũng chỉnh tề hơn. Tối thiểu cũng áo len, hoặc blouson. Con nhà giàu như Hồ Mạnh Trinh thì áo blouson da, kính đen như điệp viên 009. Riêng Tô Văn Lai là một trong những sinh viên ăn mặc chỉnh tề hơn cả dưới mắt tôi. Có thể có một tự trọng trong cách thức ăn mặc. Có thể biểu lộ một cá tính nào đó.

– Phần nữ sinh viên, nhất là ban Pháp văn, phần đông con nhà khán giả, học Yersin, hoặc bên Couvent, hoặc JJ. Rousseau hay Marie-Curie, Sài gòn. Những người đẹp này, tôi gọi chung là “diễn hành phái tính”, họ đi từng nhóm một như một cuộc rước đèn, bên cạnh một số sinh viên lẽo đẽo đi kèm.

– Phi Loan, người đẹp duy nhất trong lớp chúng tôi, như hoa lạc giữa rừng con trai, nghe nói đã có chủ nên lúc nào cô cũng tỏ ra nghiêm nghị mà không một anh nào dám sàm sỡ. Được biết sau khi ra trường Phi Loan qua đời rất sớm vì bạo bệnh.

– Ôi, cả một thời tuổi trẻ quá khứ vàng son. Sau này tứ tán khắp nơi. Có rất nhiều bạn cùng lớp, cùng thời, tôi đã chưa bao giờ gặp lại họ, dù chỉ một lần. Một lần thôi cũng không có, dù biết họ vẫn hiện diện tại các trường trung học khắp nước.

– Hôm nay ngồi nhắc lại truyện này không khỏi bùi ngùi, nuối tiếc dĩ vãng tàn phai.

* Những ngả rẽ trong cuộc đời

– Hành trang vào đời muôn ngả như kẻ gieo trồng. Kẻ gieo trồng chọn được mảnh đất tốt thì sinh hoa kết trái. Kẻ chọn mảnh đất xấu, đầy bụi gai, cỏ dại thì thân nghiệp bị đọa đầy.

– Tôi nhắc lại hai bạn Nguyễn Trọng Văn và Dương Văn Ba, chỉ vì họ nổi tiếng, kể cả trên chốn máu tanh mưa máu sau này khi thời cuộc thay đổi.

Nguyễn Trọng Văn chọn đứng vào thành phần thứ ba, viết trên tờ Đất Nước, viết trước 1975: Phạm Duy đã chết như thế nào, vào năm 1971. Chọn lựa Phạm Duy là chọn lựa có chủ đích, đánh vào thành phần tiêu biểu của trí thức miền Nam. Sau này theo hẳn phía bên kia trở thành kiêu binh, phản vợ và phản thầy. Rất tiếc, tôi lại là một trong những người bạn thân tình nhất của NTV. Những lúc ngồi trên bãi cỏ đồi thông với những cao vọng ngút trời. Khi đi dạy, đến nhà, NTV chia sẻ lý do gì anh theo cộng sản. Tôi biết từ đầu mà chẳng nói. Cũng con người ấy, sau này gặp lại tôi, tôi xỉ vả hết lời, đăng đàn trên diễn đàn Talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài, hoặc trên dcvon line.net.. Gần như một mặt trận ý thức hệ giữa chúng tôi, bạn thành thù địch. Gặp lại NTV trong một bữa ăn do tôi khoản đãi. Một anh bạn khóa đàn em, chỉ thẳng mặt NTV hài tội. Anh chỉ cúi đầu, rồi ấm ức cười rồi khóc. Tiếng khóc ấy muộn màng không thay đổi được cuộc đời oan nghiệt mà anh phải gánh chịu dưới ách cộng sản. Anh đã chết vì tai biến mạch máu. Chỉ có một điều an ủi, anh lấy được người vợ thứ hai hiền thục, hết lòng chăm sóc chồng. Thôi cũng xong một cuộc đời chọn lầm bên.

– Dương Văn Ba, người vô địch thời sinh viên Đà Lạt mà đã đùm đề vợ con. Đây là con người hay gõ cửa phòng cha Viện Trưởng để mượn tiền nhất, vì lúc nào cũng thiếu tiền. Hình như đến khi ra trường vẫn chưa trả hết nợ. Sau này khi rời chức vụ, cha Nguyễn Văn Lập đã nói văn phòng quản lý đốt hết hồ sơ sinh viên nợ.

– Sau 1975, Dương Văn Ba nổi lên như cồn. Tôi đi xe đạp, anh đi xe díp Land Rover gặp nhau. Nhất là từ khi làm phó Giám đốc công ty Minh Hải, khai thác gỗ bên Vientiane, Lào. Câu truyện dài lắm, cả một cuốn sách, sau này trở thành Vụ án Cimexcol đưa đến bản án tù sai oan cho DVB. (Xin đọc cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận, một người gắn bó với DVB cho đến cuối đời)

– Thoạt khởi đầu thời gian mới ra trường , DVB chạy theo nhóm Liên trường, kết bè với Lý Chánh Trung, cũng ăn nói táo tợn, cũng viết báo hung hăng trên tờ Đại Dân Tộc. Là một dân biểu đối lập ở Hạ Viện VNCH, kết thân với Ngô Công Đức, nhất là Hồ Ngọc Nhuận. Sau 1975, chạy theo Võ Văn Kiệt, rồi sau cùng bị Nguyễn Văn Linh (Bắc Kỳ) trù dập đến thân tàn ma dại. Đến không chỗ dung thân, đến tù tội, đến của cải tiền bạc sạch nhẵn. Những kẻ chọn lầm bên thì số phận họ đã được định sẵn. Như lời bà Christiane d’Anival đã than: Cruauté Asiatique (Sự đôc ác của người Á Đông).

– Cả hai anh đều có tài ăn nói và cầm bút. Nhất là Dương Văn Ba, còn có tài kết nối, xoay sở, tính toán. Trước 1975, anh phải trú ẩn ở Dinh Hoa Lan của tướng Dương Văn Minh, nơi trú ẩn an toàn nhất, vì bị lùng bắt bởi TT. Nguyễn Văn Thiệu.

– Phần còn lại, may mắn thay và hạnh phúc thay, đa số chúng tôi vẫn chọn mình là dân miền Nam như Tô Văn Lai, Phạm Phú Minh, Nguyễn Văn Lục, Hồ Công Danh và nhiều bạn bè khác.

· Trường hợp Tô Văn Lai.

– Anh là một trong số sinh viên xuất sắc trong lớp chúng tôi về nhiều mặt. Nhuần nhuyễn tiếng Pháp, tiếng Anh, giỏi toán. Tính tình điềm đạm, ăn nói chuẩn mực, ảnh hưởng văn hóa Pháp một cách rõ nét. Sự say mê âm nhạc khởi đầu từ việc mở một quán bán băng nhạc khi về dạy học trường nữ trung học ở Mỹ Tho. Cộng thêm có người vợ cùng chí hướng. Sang Pháp năm 1976, khởi đầu sự nghiệp bằng tiệm bán xăng, rồi cứ thế mà lên.

– Những cái duyên gọi là may mắn, anh đổ cho Chúa sắp đặt, tôi nghe mà ngỡ ngàng. Cái gì cũng Chúa lo liệu, sắp đặt hết. Anh có niềm tin tôn giáo vượt xa nhiều người trong đó có tôi.

– Sự thành công trong Paris by Night của anh do lòng say mê nghệ thuật và âm nhạc mà chủ yếu anh đã chọn lựa được mảnh đất lành là đất Cali, nơi có đông cộng đồng người Viêt. Anh đã bắt mạch được thời đại. Anh đã đáp ứng nhu cầu của người nghe nhạc, vun trồng giới ca sĩ từ nhiều phía. Có lần anh đã lặn lội về Việt Nam mời nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông như nhiều người đã biết . Nhưng anh còn nói với tôi là anh muốn dựng lại những nhạc sĩ “cổ thụ” như nhạc sĩ Hùng Lân, tiếp xúc với gia đình nhạc sĩ quá cố để vinh danh ông.

– Lòng say mê ấy còn tiến xa hơn nhiều trung tâm băng nhạc khác bằng cách đầu tư vào kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, dàn dựng sân khấu, y phục thời trang cách tân đổi mới chiếc áo dài . Tô Văn Lai sẵn sàng chịu tốn kém mà phần lớn thuê mướn nhân công ngoại quốc có tay nghề. Anh đã chọn đúng người, đúng việc mà trong đó góp mặt cộng sinh với Nguyễn Ngọc Ngan-Nguyễn Cao Kỳ Duyên.

– Anh đã có lần nhờ tôi viết bài về chương trình Paris By Night. Anh đã cẩn thận trao cho tôi đầy đủ băng nhạc, cất công đến nhà, giải thích mỗi chủ đề. Nhưng bài viết của tôi đã không đạt được tiêu chuẩn của anh. Thật lấy làm tiếc. Tôi cũng đã cất công đi tìm lại bài viết, nhưng thất lạc chưa tìm được. Khi tôi ra mắt sách: Hai mươi năm miền Nam 1955-1975. Anh đã cho một cô nhân viên đến phỏng vấn tôi và nhà báo Trần Phong Vũ. Tôi vẫn ghi nhớ.

– Tôi cũng tự mình đặt một câu hỏi, hình như anh đã không có lần nào đề cập đến trường hợp Trịnh Công Sơn vốn âm nhạc cũng nổi tiếng một thời. Phải chăng anh có thể mời các ca sĩ trong nước như Bằng Kiều và nhiều người khác mà không bao giờ đả động đến Trịnh Công Sơn?

– Sự thành công của anh không chỉ thuộc về anh và gia đình, nay nó trở thành di sản chung của người Việt hải ngoại và cả trong nước. Nó vượt biên giới chính trị mà cái còn lại chỉ là tình người muôn thuở. Nó chẳng những đem lại một sưởi ấm quê hương với hương vị ngọt ngào mà còn là niềm tự hào của di sản người Việt.

– Trong những buổi họp mặt anh em, anh thường có mặt. Tôi nhớ có lần ở khu mobile của Phạm Phú Minh. Bữa đó thật vui và khó quên. Nhớ lại, có hai người để lại di sản văn hóa đáng nói ở đây. Ngoài Tô Văn Lai, Phạm Phú Minh bị cộng sảm giam tù mút mùa, sau khi đến Hoa Kỳ đã lo chăm sóc tạp chí Thế Kỷ 21, và nay đang điều hành tờ Diễn Đàn Thế Kỷ thu góp gió bốn phương từ nhiều nguồn, từ nhiều phía để lại một di sản văn hóa đúng nghĩa.

– Nhưng hơn tất cả, vượt tất cả là Tô Văn Lai có viễn kiến, có tầm nhìn cao. Một niềm hy vọng trước cả nỗi tuyệt vọng và khó khăn trước mặt. Không có cao vọng đó, anh không thể đạt được những thành tích trên người và vượt người. Tham vọng lớn, chiều kích lớn đưa đến thành công lớn như một quy trình logic.

– Một chi tiết nhỏ là anh muốn mở một tiệm bánh kiểu Tây với loại bánh mì baguette, ruột mỏng và và vỏ cứng dòn. Và những chiến bánh croissant thơm ngậy mùi bơ. Anh nghĩ đến để cho cậu con trai trông coi tiệm bánh Tây này. Sở nguyện này chắc anh chưa thực hiện được như lòng mong muốn, đem văn hóa ẩm thực Paris vào cộng đồng người Việt hải ngoại.

– Tôi cũng chẳng muốn đi vào nhiều chi tiết mà khán giả ái mộ đã dành cho anh. Tôi nghĩ như thế đã là đủ.

· Đôi dòng kết luận

– Miền Nam và hải ngoại thấm nhuần tinh thần tự do tư tưởng, nhân bản đã dẫn đường cho những người như Tô Văn Lai như ngọn đuốc soi sáng. Di sản văn hóa và âm nhạc như một chúc thư để lại cho đời. Anh đúng là người mở đường cho dòng âm nhạc đa dạng của người Việt Nam.

– Tôi là dân Triết – như anh, như bạn bè cùng khóa -, xin gửi lại người bạn Tô Văn Lai mà chắn chắn anh và bạn bè anh cũng cũng biết triết gia E. Mounier – một triết gia hữu thần chủ trương tâp san Esprit chống lại J.P.Sartre – trong tinh thần triết học, tôi nghĩ anh Tô Văn Lai thật xứng đáng lãnh nhận câu nhận xét sau đây. “Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá đặt đúng chỗ có thể chuyển hướng cả một dòng sông”(Emmanuel Mounier). Anh là một hòn đá cương nghị, tin tưởng vào việc mình làm, anh được đặt đúng chỗ và đúng thời điểm nên đã chuyển hướng cả một dòng âm nhạc mang bản sắc Việt Nam.

Có lẽ, đây là lời lẽ chân thành và đúng nghĩa nhất mà anh mong đợi như lời tiễn biệt anh.

Giờ phút tiễn biệt này, cùng các bạn khóa Triết Đà Lạt còn ở lại dương thế này, cầu chúc anh Phêrô Tô Văn Lai lên đường bình an và hưởng nhan thánh Chúa. Và mong con cái dâu rể của anh nối nghiệp cha trong một sự nghiệp hiển hách để lại cho đời. Anh như một vì sao vừa mới rụng. Amen

– Các bạn anh: Trương Đình Tấn, Nguyễn Văn Lục, Phạm Phú Minh, Vĩnh Phiếu, Minh Pat Boon và Hồ Công Danh.

Tưởng nhớ bạn TÔ VĂN LAI

Chúng tôi một số anh em cựu sinh viên khóa thứ ba Đại Học Sư Phạm ban Triết Học tại Đại học Đà Lạt (1961-1964), đau buồn được tin bạn đồng khóa của chúng tôi :

Anh Phêrô TÔ VĂN LAI

Giáo sư Triết học tại Việt Nam trước 1975

Là người sáng lập Trung Tâm Thúy Nga tại Hoa Kỳ và chương trình ca nhạc nổi tiếng hải ngoại “Thúy Nga Paris By Night”

Đã qua đời vào ngày 19 tháng 7 năm 2022

Tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ

Thọ 85 tuổi.

Chúng tôi thành kính chia buồn cùng gia đình anh Tô Văn Lai và xin nguyện cầu Linh Hồn Phêrô Tô Văn Lai sớm về Nước Chúa.

Để tưởng nhớ đến thời kỳ đèn sách xa xưa, chúng tôi xin đăng lại dưới đây tấm hình ngày ra trường của lớp Đại Học Sư Phạm ban Triết học chúng tôi tại Đại Học Đà Lạt, vào mùa hè năm 1964 (không hoàn toàn đầy đủ tất cả anh em trong lớp).

16 BÌNH LUẬN

  1. (· Trường hợp Tô Văn Lai.

    – Anh là một trong số sinh viên xuất sắc trong lớp chúng tôi về nhiều mặt. Nhuần nhuyễn tiếng Pháp, tiếng Anh, giỏi toán…..)

    Thời đó VN vẫn còn ảnh hưởng văn hoá Pháp nên đa số sinh viên nhuần nhuyễn tiếng Pháp là có lý.
    Nhưng tôi có đọc một cuộc phỏng vấn khá lâu (không nhớ rõ báo nào) có nói khi ông TVL đến nhờ một nhà truyền hình Pháp làm một Video nhạc thì phải nhờ con cô gái Tô Ngọc Thủy thông dịch.
    Không hiểu chuyện thực hư thế nào?

    • Anh Phét bảo rùi mà lị , CON CÁ MẤT LÚC NÀO CỦNG LÀ CON CÁ TO. Anh Phét bảo đảm lúc sinh thời TO VAN LAI là khắc tinh của NGỤY VAN LỤC. Khi To Van Lai không còn thì mượn …………LINH HỒN của TO VAN LAI để tự suóng cho cái danh Giáo Vien dạy Triết quèn của mình cho…………..SUÓNG.

  2. Trích:”Cung cách giảng dạy của giáo sư người Việt mỗi người một kiểu. Như Lý Chánh Trung, tiếng là dạy môn Đạo Đức học lại cố tình chệch hướng với: Bạo động và lịch sử. Ông vận dụng triết học cho một xu hướng chủ nghĩa xã hội không cộng sản. Trần Văn Toàn thì cố nhồi nhét triết học Karl Marx với ba tác phẩm: Hành Trình đi vào triết học, Xã hội và con người và Tìm hiểu Triết học Karl Marx“

    Nhờ sự nhắc lại chuyện này của ông Nguyễn Văn Lục rõ ràng về Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Nguyễn Trọng Văn, Dương Văn Ba…mới thắm thía câu để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu với đám:”ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
    Cho nên miền Nam tự do đã mất vào tay cộng sản với sự nội gián của đám phản quốc này thì không có gì là lạ cả.

    • Cũng hơn 50 năm nay các đại học Mỹ được các giáo sư (cánh tả) kiểu Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn…giảng dạy, với sự cộng tác của đám truyền thông thiên tả. Đặc biệt Trung Cộng cộng đã bơm rất nhiều tiền vào các đại học danh tiếng để tuyên truyền dưới danh nghĩa trao đổi văn hoá như viện Khổng Tử.
      Nhưng tới thời ông Trump mới khám phá ra và làm ầm lên, nếu không, nước Mỹ cũng sẽ rơi vào vết xe của VNCH.

  3. Bác viết phúng điếu cụ Tô Văn Lai, chuyện bình thường. Với tui, khác tí chút.

    Nghệ sĩ hay người yêu mê khoa học họ lao vào cái đam mê, và hạnh phúc trong cái đam mê đó, là tự nhiên, có thể gọi là nghiệp dĩ. Nếu thành công thì tiền bạc mới đến sau. Còn cụ TVL, khởi đầu đã kinh doanh băng đĩa, thì vấn đề lời lãi phải tính trước. Thành công, như đang có, là danh đến sau. Thúy Nga Paris từng tổ chức rất công phu về đủ thể loại âm nhạc của một thời vang bóng miền Nam mà lại trình diễn trên “một cái sân khấu lộ thiên ở trên trời” (internet) ở đâu cũng xem được, nên được ca ngợi là đương nhiên.

    Trước hết là sự thành công to lớn về tài chánh nhờ tâm trạng hoài niệm VNCH của người Việt lưu vong. Kế đến là người trong nước, đặc biệt phía Bắc, nhờ băng lậu hoặc… free!

    Người Bắc vốn bị cưỡng bức và nhồi sọ bởi thứ “văn hóa căm thù”, để vận động cho cuộc chiến xâm lăng miền Nam, nên họ mê ngay khi biết được dòng nhạc trữ tình của miền Nam, nhạc bolero vẫn đang hút khách “khủng” là ví dụ, đó là bản tính tự nhiên của con người. Như đập bị vỡ đàn cá tràn theo dòng nước lũ đang chảy tự do. VNCH bị sụp đổ nhưng lại giải phóng được sự tù ngục trong tinh thần cho người phía Bắc.

    VC ngăn chận cũng không được, nên họ vội vàng bắt báo chí gỡ ngay khi đưa tin cụ TVL, cha đẻ của TN Paris, người làm sống lại hình ảnh VNCH bằng âm nhạc, vừa qua đời!

    Nhưng Thúy Nga Paris đang “chết” vì số người thời VNCH hải ngoại không còn nhiều, nửa thế kỷ rồi mà (!) còn lớp trẻ thì đang theo dòng chính nơi họ sống. TN Paris “chết” cũng có “tội” của tui trong đó nữa! Vì, nói nào ngay, tui chưa hề mua bất cứ băng đĩa nào cả. Lý do khá đơn giản, không muốn tinh thần mình bị chùng xuống khi nghe những giai điệu hầu hết là u buồn, nuối tiếc. Cứ mang mang tâm trạng mất nước như nhạc của người Chiêm Thành.

    Tui từng có thời gian sống với nhạc của người K’ho, Ede ở cao nguyên. Trong lờ mờ bóng tối của hoàng hôn, sau ngày làm việc cực khổ ở các buông rẫy xa trở về, họ rách rưới, khét nắng ngồi thành vòng uống rượu cần, hát ơ ơ, lơ lớ, khàn khàn cộng thêm thứ âm thanh ma quái từ cái kèn ống nứa giữa rừng núi âm u sắp chìm vào bóng đêm, nghe u uất đến rã rời. Âm thanh man dại đó như báo hiệu họ sẽ mất quê hương. Cứ hỏi ông Nguyên Ngọc, “cây xà nu Tây nguyên”, sẽ rõ. Chỉ tiếc là “cây xà nu” vưỡn tôn thờ đảng HCM huhu!

    Bác Lục ui, nhắc đến Đà Lạt là mở cánh cửa rêu phong của ký ức, cả vùng trời kỷ niệm sống lại. Cổng Viện Đại học ĐL lúc đó chỉ là 2 cái trụ đơn sơ, một bên gắn cái bảng đồng tên trường. Lối vào cứ như vào một biệt thự phương Tây. Phía trái là văn phòng, vô tiếp là giảng đường Thụ Nhân. Sau lưng Thụ Nhân là ngôi nhà thờ nhỏ ở thế đất cao nhứt, tui từng trăn trở câu hỏi về chiến tranh mà không thể giải thích được và mơ mộng cũng ở đó. Nhìn phía Đa Thiện có Thung lũng Tình Yêu, nhìn phía Lạc Dương có lăng Nguyễn Hữu Hào, chệch tí là có thể thấy cây antenna trên đỉnh Lâm Viên. Ngay trước cổng là thảm cỏ Đồi Cù, đi men theo lối mòn giữa đồi cù, với con suối rất nhỏ, gần đến hồ Xuân Hương có cụm thông khá lớn mà ông phi công phản lực hào hoa nào đó đã hứng chí tạt ngang bay biểu diễn, thấp quá đà, nên húc vào đó để… trở thành cát bụi! Còn BS Hách người bé nhỏ tẻo tèo teo, có phòng mạch bên trái đường Minh Mạng, hướng xuống rạp xi la ma Cẩm Đô, mà giọng nói thì xì xèo, xèo xì… hihi

    Thôi, còm dài quá rùi! Chúc bác vui khỏe. Kính chào bác.

    • Chào Ban Mai,
      Từ trên đồi chợ Hoà bình (bây giờ hình như đã là một hội trường), có vài đường đổ dốc xuống vùng trũng của ĐLt, 1956.
      Đường Lê Đại Hành đổ dốc xuống hồ XH băng ngang qua cầu Bá Hộ Chúc chạy thẳng lên sân banh là một hướng. Hướng ngược lại leo dốc cao 30 độ lên nhà thờ Con Gà…
      Đường Tăng Bạt Hổ bên phải, và Minh Mạng bên trái, cùng đổ dốc xuống phía đối đỉnh với Lê Đại Hành, hội tụ nhau tại rạp cine Ngọc Hiệp…
      Dông dài chút để thắc mắc với BM, sao lại là “đường Minh Mạng, hướng xuống rạp xi la ma Cẩm Đô”

      Từ bao giờ có tên Cẩm Đô?
      Xưa ĐL chỉ có 2 rạp, Ngọc Lan nhìn xéo xuống hồ XH, và Ngọc Hiệp trên đường Phan Đình Phùng, là thời tôi học Đệ Nhị ở TH Minh Đức sau lưng nhà thờ CG.

      Bổng dưng có người nhắc lại ĐL, hơi bồi hồi chút, nên có vài dòng cho hỏi thăm về rạp cine Ngọc Hiệp.

      • Yes sir, xi la ma Ngọc Hiệp. Quẹo trái gần đó là Mì Cẩm Đô rất nổi tiếng, đoạn nối Phan Đình Phùng với Hai Bà Trưng. Ngọc Hiệp giờ là thương xá lớn. Tăng Bạt Hổ thì có bánh xèo, Minh Mạng có chè Hường, vang bóng một thời. Khu Hòa Bình thì đường Lê Đại Hành đổ dốc xuống hồ XH ngược lên nhà thờ Con Gà. Lũng đất sình lầy rất sâu từ biệt thự Trang Hai, màu trắng (góc hồ XH) đến dốc nhà thờ bây giờ là trung tâm thương mại sầm uất. Cũng chỉ lõm bõm thế thôi dù trước kia tui ở Garage STT, tức dốc Duy Tân đổ xuống, trường Việt Anh bên phải.

        ĐL cũ biến mất. Giờ thành kẻ xa lạ 100% và ĐL thì bê tông cốt sắt.

      • Lâu quá quên, là Trung học Trí Đức, không phải MĐ.
        ĐL 1956 còn hoang dã thơ mộng. Đêm Noel quanh bờ hồ XH sương mù bao phủ, đi cách nhau 3 met không nhìn ra nhau. Bọn tôi đạp xe đi chơi hồ Than Thở, ăn trưa, ngâm mấy chai nước ngọt xuống mé nước, lấy lên uống lạnh buốt như từ ngăn đá ra.
        Cảm ơn BM đã hồi đáp.

  4. Khi lảo còn sông’ nhăn răng thì là đầu mối cho sự GANH TỊ , Đố Kỵ và muón winh’ sập Thúi NGA PA RI cho bỏ ghét.

    Còn nhớ cuón bằng Video thứ 40 không hả. Ai đòi tẩy chay Trung Tam Thúi Nga? củng là Tàn Dư Ngụy Cock. Ai chửi rủa NGUYEN NGOC NGẠN thậm tệ và TO VAN LAI là tên CS NĂM VÙNG……, ui chao nhieu lắm.

    Con cá mất lúc nào củng là con cá…………..TO , mệt các trự Tàn Dư NGUY COCK quá đi.

    Thằng nào củng………THÚI giống nhau thôi. You dónt think your shits don’t stink? Bớt bót đi kẻo xấu mặt nghen Tàn Dư Ngụy Cock Nguỹen Van Lục.

  5. Paris By Night, và mục đích của entertainment

    PBN đơn giản chỉ là một trung tâm sản xuất băng đĩa âm nhạc CD và DVD với nội dung giải trí, entertainment.

    Người Việt khoái tâng bốc chung chung những thứ đao to búa lớn như “đạo đức” “uy tin” “bảo tồn” văn hóa VN bla bla bla. Họ ít để ý những khía cạnh khác rất quan trọng trong đời sống và trong hoạt động khác của văn học nghệ thuật. Thí dụ như khía cạnh giải trí trong nghệ thuật, The Art of Entertaining.

    Ông Tô Văn Lai có lẽ là người đầu tiên sau 75, tại hải ngoại, đã phục hồi nghệ thuật giải trí của văn nghệ VN thời VNCH. Tôi nói phục hồi vì nghệ thuật này đã có và đã phát triển ở miền Nam trước 75 với hình thức ca vũ nhạc kịch tổng hợp của các sân khấu Đại Nhạc Hội lúc bấy giờ. Tiêu biểu là nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với nhà hàng ca nhạc Maxim’s và đoàn vũ nhạc lừng danh Lưu Hồng. Có điều, trước 75 là nhạc sống. sau này, PBN chỉ còn là các băng đĩa thu âm và ghi hình.

    Một bài ca một tác phẩm văn nghệ đế đi được vào công chúng thì chúng phải qua gia đoạn trình diễn thuộc về nghệ thuật khác gọi là giải trí. The Art of Entertaining liên quan tới nhiều thứ, đạo diễn, tìm tòi, chọn lựa, đầu tư, quảng cáo v.v.

    PBN khá thành công trong một thời gian sau 75 đến các năm đầu 2000s. Sau này, họ phải đối diện với mặt tài chánh cùng sự đánh phá ngầm cúa VC. Chính PBN đã thú nhận vì tình trạng sao chép và bán phá giá của chính người VN trong nước (VC).

    Ngoài ra còn vài vấn đề có tính gia đình của ông TVL cũng vô hình trung “đánh phá” mục tiêu phục hồi vinh danh các nhạc sĩ và nghệ sĩ VNCH của trung tâm PBN. Sau này chính vợ ông, bà Thúy Nga, đã dzìa thắng VN sơn sửa độn tu chỉnh “sắc đẹp” “bản thân” hơn 7 bó để chơi bứt gân lấy tiếng là ếch “bắt cặp” với văn công VC. Con gái và nhất là chàng rễ của ông TVL cũng vậy, cũng hợp tác chặt chẽ với VC. Thành ra PBN bây giờ để “tồn tại” thì gần như đã thay hình đổi dạng rất nhiều.

    • “Paris By Night, và mục đích của entertainment
      PBN đơn giản chỉ là một trung tâm sản xuất băng đĩa âm nhạc CD và DVD với nội dung giải trí, entertainment.”

      * Cần gì phải nhấn sự miệt thị của ông bằng chữ “đơn giản chỉ là” .
      Không đơn giản, thì phải phức tạp gì nữa với một trung tâm ca nhạc?!
      TTCN là Trung Tâm Ca Nhạc, thế thôi, không đơn với kép gì cả!
      Ông cho rằng những đại nhạc hội PBN tổ chức hoành tráng mà chính ông cũng xem ít nhất trên TV đều là thứ không ra gì?
      Họ ra sức dàn dựng đạo diễn trình diễn, thì họ có quyền ghi đĩa quay phim để bù lại vốn liếng đã đổ ra, và tồn tại, tiếp tục.
      Họ ghi hình ghi âm trên băng đĩa không lẽ ghi từ con số không to tướng?
      Chẳng lẽ họ lấy không làm có?
      Chẳng lẽ hoạt động của PBN không đóng góp chút nào trong việc lưu giữ những giá trị của một nền âm nhạc có nguy cơ bị mai một, khi cái nôi sinh ra nó đã bị xâm lăng, phá nát?
      Chẳng lẽ chế độ đã chiếm đoạt cái nôi đó và cấm đoán, từng liên tục phỉ nhổ nền ca vũ nhạc kịch đó bằng cả guồng máy tuyên truyền hung hãn,
      rằng đó là thứ văn hoá đồi truỵ,
      lại sẵn sàng thiện chí duy trì thăng hoa nó lên, cóc cần đến Paris By Night?!

      Bằng giọng điệu bỉu môi khinh khỉnh đối với một thực thể văn hoá như PBN, ông xúc phạm một cách không cần thiết đến tình cảm của triệu người bất hạnh đang lưu vong, và xúc phạm cả những người trên đất nước khốn khổ nầy, muốn tìm lại chút hương xưa, đã tự nguyện tìm hưởng thụ những sản phẩm văn hoá đó,
      Ông nhạo báng, biến họ thành kẻ ngớ ngẩn mà được chăng?
      Và để làm gì?

      Thiến Heo,
      “chính vợ ông, bà Thúy Nga, đã dzìa thắng VN sơn sửa độn tu chỉnh “sắc đẹp” “bản thân” hơn 7 bó để chơi bứt gân lấy tiếng là ếch “bắt cặp” với văn công VC”

      * Văn tức là người.

      Tôi không ngửi được câu trên!
      Đúng là danh bất hư truyền, Thiến Heo.

      • Tôi không ngửi được câu trên!(Phấn Huê)

        Đã không ngửi được mà còn đứng đó la thật lớn thì theo nguyên tắc “khoa học” là đã tự động hớp hơi trở dzô lại toàn … bộ rồi. Chơi dại.

    • Hello bác T.H., tui đồng ý nhiều điểm trong còm của bác. Nhưng không đồng ý về chuyện riêng của gđ cụ TVL. Thử so sánh với tấm hình cụ Phạm Duy hí hửng cầm cái passport VN? Đó là tự do của cá nhân và nhờ sự tự do đó mỗi người trong chúng ta có nhận xét riêng về nhân phẩm của họ. Riêng cái nick của bác tui nghĩ cụ HP không hiểu nên có vẻ xúc phạm. Theo tui cái nick đó hàm chứa sự châm biếm ĐM, về nghề nghiệp của ổng trước khi làm Tổng bí thư. Hihi mà cũng là tiếng chửi thề quen miệng của người miền Nam phải không? Thôi hỉ xả, đặt ngược lại là xả hỉ đi bác. Xả rồi mới hỉ được, nghen bác. Chúc bác an vui. Bấm phone mệt rùi.

      • Tôi hiểu anh ta dùng tên để diễu Đ10 chứ.
        Nhưng đọc rất nhiều còm của TH, luôn là một giọng văn tục tỉu pha kiêu ngạo khoe kiến thức chữ nghĩa nhưng lại trật lất.
        Có người góp ý thì anh ta tảng lờ, đôi ba phen không hồi đáp – là thiếu tự trọng, vô trách nhiệm đối với phát ngôn của chính mình trước dư luận ở đây.
        Tôi không chịu được thói tục tỉu của TH, đơn giản vậy thôi. Đã tục thì tục cho luôn, đừng vừa tục vừa tỏ ra trí thức!
        Tôi vốn thận trọng, chỉ tranh luận với những bạn có học và có tư cách, không ưa gây gổ với loại hạ cấp.
        TH vừa hạ cấp vừa loè trí thức nửa mùa, lại ưa xúc phạm quá khứ VNCH. Tôi không im được.
        Nhưng thôi, đã đủ. Tôi xin rời bỏ vụ nầy với TH.

Leave a Reply to HuePhan Hủy phản hồi

Please enter your comment!
Tên