Phạm Xuân Nguyên: Ngưỡng thấp của văn học Việt Nam

32

Sau 50 năm từ khi chiến tranh kết thúc (1975), thống nhất đất nước, và gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đang bước vào nhóm các nước có ngưỡng trung bình cao trên thế giới.
Còn văn học VN đang ở ngưỡng nào của thế giới?
Câu trả lời của tôi là: Ở ngưỡng thấp, dưới trung bình.
1
Trong nửa thế kỷ qua tác phẩm văn học VN được dịch nhiều nhất, được biết đến nhiều nhất trên thế giới là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh. Sau khi xuất bản năm 1990 và được giải thưởng của HNVVN năm1991, NBCT được các dịch giả Phan Thanh Hảo, Võ Băng Thanh và Katerina A. Peirce dịch sang tiếng Anh và xuất bản đầu tiên năm 1992 tại Nxb Martin Secker&Warburg (Anh). Từ bản dịch tiếng Anh đó nhiều bản dịch NBCT sang các thứ tiếng khác đã được thực hiện, cho tới nay theo con số chưa đầy đủ NBCT đã được dịch ở hơn hai chục ngữ. Nó trở thành tác phẩm tiêu biểu của văn học VN trên thế giới. Năm 2008 tôi có bài tổng quan về sự tiếp nhận tác phẩm này ở Mỹ cho thấy nó được đánh giá rất cao, có người xếp ngang với cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Phía Tây không có gì lạ” của nhà văn Đức E.R. Remaque. Bản dịch NBCT gần đây nhất là bản tiếng Trung của dịch giả Hạ Lộ, PGs. Ts văn học Việt Nam tại Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Nhà văn hàng đầu của văn học Trung Quốc hiện nay Diêm Liên Khoa trong bài giới thiệu đã đánh giá NBCT cực kỳ cao. Ông đặt tên bài viết của mình là “Tầm cao của văn học chiến tranh Phương Đông”. Ông viết:

“Tôi với tư cách là một tiểu thuyết gia đã có đến 26 năm trong quân đội, đọc xong tiểu thuyết này, cảm giác mãnh liệt nhất, đó chính là giả sử ngay từ cuối những năm 80 hoặc muộn hơn một chút vào đầu những năm 90, chúng ta có thể dịch “Nỗi buồn chiến tranh” sang tiếng Trung thì nhận thức của chúng ta đối với văn học Việt Nam sẽ không đến nỗi phong bế và hạn hẹp như hôm nay; văn học quân đội Trung Quốc cực kỳ cũ kỹ và trì trệ hôm nay cũng nhất định sẽ không bảo thủ, bó chân và tụt hậu như vậy. Thậm chí có thể nói, nếu như có thể kịp thời dịch và giới thiệu “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, văn học quân đội Trung Quốc ngày ấy và bây giờ đều rất có thể đã mang một cảnh sắc và sinh khí khác.

Nghiền ngẫm “Nỗi buồn chiến tranh” với tư cách là một tiểu thuyết chiến tranh phương Đông trong bối cảnh văn học thế giới và so sánh nó với dòng văn học chiến tranh mà chúng ta có thể đọc được của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, rõ ràng “Nỗi buồn chiến tranh” đánh dấu tầm cao của một thứ văn học mới. Một tác phẩm cực hiếm của một nhà văn châu Á phương Đông, hiếm có trong những miêu tả, nhận thức, phê phán thẩm mĩ đối với chiến tranh, hiếm có trong những lý giải và tình yêu đối với con người, những suy tư về nhân tính, hiếm có cả trong biểu đạt nghệ thuật – một phương diện cá tính nhất, quan trọng nhất đối với một nhà văn.” (Thiên Thai dịch từ tiếng Trung).

Một nhà văn Việt Nam tiêu biểu khác có tiếng vang ra thế giới là Nguyễn Huy Thiệp (1950/2021). Tác phẩm của ông cũng đã được dịch ra một số thứ tiếng. Riêng ở Pháp, và chủ yếu ở Pháp, NHT được dịch nhiều nhất. Đặc biệt Éditions de l’Aube, một nhà xuất bản tư nhân nhỏ tại Paris, đã cho dịch gần như toàn bộ các tác phẩm truyện ngắn NHT ra tiếng Pháp. Éditions de l’Aube thành lập năm 1987, chủ trương dịch và in sách của các tác giả ở các “nền văn học nhỏ” và các tác giả “có triển vọng”. Trong danh mục sách của Nxn này có sách của các tác giả Iran, Afghanistan, Trung Quốc, Algérie, Việt Nam (ngoài Nguyễn Huy Thiệp còn có Tô Hoài, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Thiều, Vũ Bão…). Ngoài ra, còn có rất nhiều tên tuổi lẫy lừng trên thế giới (Václav Havel, Cao Hành Kiện, Tony Blair …).
Chính d’Aube trong một tham vọng của mình, được khích lệ bởi thành công trước đó với Cao Hành Kiện – nhà văn Pháp gốc Trung Quốc từng in những tác phẩm dịch ra tiếng Pháp đầu tiên ở đây về sau đã được giải Nobel văn chương (2000), chính d’Aube đã gợi ý NHT viết tiểu thuyết (trước 2013 giải Nobel văn chương trao cho nhà văn là phải có tiểu thuyết). Được sự thúc đẩy ấy NHT đã viết tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu và nhanh chóng khi bản tiếng Việt chưa in/chưa được in trong nước thì bản thảo đã có bản dịch tiếng Pháp in tại Paris. Éditions de l’Aube đã chọn đó là cuốn sách thứ 1000 kỷ niệm 18 năm hoạt động của mình. Dịp ra mắt sách Tuổi hai mươi yêu dấu NHT đã được mời sang Paris giao lưu và ký sách (tôi khi ấy đang ở Pháp có đến dự). Khi NHT mất, nhà văn Linda Lê (1963/2022) trong bài viết tưởng nhớ có tên “Sự biến mất của kẻ gây hấn” đã đánh giá: “Dù nói về tình yêu đất nước, nỗi thương nhớ đồng quê hay những mưu mô trong cung đình hoặc thậm chí là về thơ, Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ mình là một người bài thánh rung lên hồi chuông, một nhà văn có con mắt linh miêu, một nhà mổ xẻ sắc bén đã thọc mũi dao vào lõi của sự thỏa hiệp, một nghệ sĩ đi rất sát với hiện thực để cười nhạo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, một người kể chuyện không là tiền quân cũng không là hậu quân, người không phải là nhà tiên tri ở đất nước mình. Sự biến mất của Nguyễn Huy Thiệp là sự biến mất của một kẻ nổi loạn đã biến văn chương của mình thành sự gây hấn.” (Ngân Xuyên dịch từ tiếng Pháp)

Trên đây là hai nhà văn nổi tiếng nhất Việt Nam thời Đổi Mới đã được dịch nhiều nhất ra thế giới (một người là một cuốn tiểu thuyết, một người là các truyện ngắn). Từng nghe ồn là cả hai ông đã có được đề cử giải Nobel văn chương. Thực hư thế nào phải đợi đến năm mươi sau khi thông tin này được Uỷ ban Nobel giải mật thì mới rõ. Chỉ biết Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp qua các bản dịch đã được độc giả thế giới biết đến, nhưng là được biết đến trong một cộng đồng văn chương hẹp.

2.
Tôi nói một cộng đồng văn chương hẹp là nhìn rộng ra cả thế giới. Văn học châu Á chưa phải là khu vực nổi bật. Trong châu Á thì văn học Đông Nam Á càng rất thiểu số. Văn học Việt Nam đi ra thế giới nằm trong thiểu số đó.

Có hai trở ngại trên con đường văn học Việt Nam xuất ngoại và tạo dấu ấn.

2.1. Thứ nhất là chất lượng tác phẩm. Nửa thế kỷ qua văn học Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, đã có những bứt phá so với chính mình về nội dung và nghệ thuật, đã có những tác giả và tác phẩm tạo được bề nổi. Có thể nói văn học Việt Nam năm mươi năm (1975/2025) là một thời kỳ phát triển mới, đa dạng phong phú hơn nhiều so với thời kỳ trước đó. Nhưng nói thực đó vẫn là nền văn học chưa VƯỢT ĐƯỢC NGƯỠNG MÌNH. Số phận dân tộc Việt Nam thế kỷ XX chứa đựng trong mình những chấn thương lịch sử ghê gớm, khủng khiếp mà văn chương chỉ mới gãi ngoài da. Nhà văn Việt Nam cả trong nước và ngoài nước, cả bên này bên kia, đều chưa vượt thoát lên được tầm dân tộc, chưa nói đến tầm nhân loại, để suy nghĩ về người Việt nước Việt trong lịch sử tàn khốc xảy ra trên đất nước này thế kỷ vừa qua. Chiến tranh trong văn học Việt Nam vẫn là chiến tranh được/bị nhìn từ một phía. Lịch sử vì thế cũng là lịch sử nghiêng về một bên, một phe. Con người trong chiến tranh vẫn là con người phiến diện. Những tác phẩm thời hậu chiến đã có sự mở rộng đề tài và khơi sâu nội dung để cái viết về chiến tranh nhiều chiều lớp, nhiều vỉa tầng hơn, sát thực với hiện thực hơn, tuy nhiên vẫn không chạm được mấy tới những chấn thương lịch sử của dân tộc. Những cái viết khác ngoài chiến tranh thì thường hời hợt. Tóm lại, chấn thương của người Việt trong chiến tranh và trong đời sống hiện đại đều đang nhạt nhoà trong văn chương người Việt. Một hạn chế nữa của văn chương Việt Nam là cách viết vẫn nặng chủ nghĩa hiện thực, hầu như không có những thế giới tưởng tượng phi thực trong tác phẩm. Văn chương đó ra thế giới khó gây được sự chú ý của độc giả nước ngoài là điều dễ hiểu. Nhất là khi đặt cạnh những tác phẩm của những tác giả châu Á khác tạo được tên tuổi trong bản dịch. Phá bỏ trở ngại thứ nhất này là điều kiện cần để văn học Việt Nam đủ tầm vươn ra thế giới.

2.2. Trở ngại thứ hai là dịch thuật – điều kiện đủ để văn chương vượt biên giới quốc gia. Nghệ thuật ngôn từ, khác các loại nghệ thuật khác, dùng chất liệu là lời nói, từ ngữ, mà loài người từ khi bị Chúa phá tháp Babel thì đành phải thông qua dịch mới hiểu nhau. Nói rằng chúng ta không quan tâm việc dịch văn chương tiếng Việt ra các ngoại ngữ thì không đúng. Nhưng đó là một sự quan tâm nửa mùa, được chăng hay chớ, không liên tục, hệ thống, đặc biệt là không có một CHIẾN LƯỢC DỊCH VĂN CHƯƠNG VIỆT RA NƯỚC NGOÀI TẦM QUỐC GIA. Hội Nhà văn Việt Nam đã bốn lần được nhà nước rót nhiều tiền để mở hội nghị quảng bá văn học Việt Nam. Hội nghị rùm beng rình rang kéo từ Hà Nội xuống Quảng Ninh, tiệc lớn tiệc nhỏ, khách ba chủ nhà bảy, dịch giả nước ngoài thì ít, lại không tinh, cuối cùng tan cuộc là tan trò, “đầu voi đuôi chuột”. Sau mấy cuộc quảng bá như thế không ai tổng kết xem đã có bao nhiêu tác phẩm văn chương Việt được dịch ra những thứ tiếng nào, dịch ra sao, tiếp thị thế nào trên văn đàn thế giới. Điều này tôi đã từng nói ngay khi những hội nghị đó đang diễn ra.

Thôi không nói chuyện đã xa, nói chuyện gần đây, bằng vào một trường hợp cụ thể ở một đất nước Đông Á. Nobel văn chương 2024 đã trao cho nhà văn Hàn Quốc Han Kang (sinh 1970). Các nhà phê bình văn học nhấn mạnh rằng các chủ đề phổ quát kết hợp với những chấn thương lịch sử của Hàn Quốc như Cuộc khởi nghĩa dân chủ Gwangju ngày 18 tháng 5 (1980) và Cuộc khởi nghĩa Jeju ngày 3 tháng 4 và vụ thảm sát (1948-1949) trong tác phẩm của Han Kang đã thu hút sự chú ý của cộng đồng văn học nước ngoài. Lời tuyên dương của Uỷ ban Nobel đánh giá Han Kang “bằng một thứ văn xuôi mang chất thơ mãnh liệt đã đương đầu với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người.” Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn nói giải Nobel cho Han Kang là kết quả của cả một chiến lược tiếp thị văn hoá nghệ thuật Hàn Quốc ra toàn cầu mà chính phủ nước này đã thi hành từ lâu. Không có chiến lược đó không có sự bùng nổ của văn hoá K-Pop (âm nhạc, điện ảnh, thời trang, lối sống) như đã và đang thấy hiện nay trên thế giới. Không có chiến lược đó không có giải Nobel văn chương của Han Kang.

Hàn Quốc đã làm thế nào trong lĩnh vực văn học?

Han Kang may mắn có được hai dịch giả tiếng Anh và tiếng Pháp đưa tác phẩm của mình thành nổi tiếng thế giới. Đó là Deborah Smith, người dịch tiểu thuyết “Người ăn chay” (2007) từ tiếng Hàn sang tiếng Anh “The Vegetarian” (2015), giành giải thưởng Booker Quốc tế danh giá của Anh (2016). Và đó là Choi Kyung-ran và Pierre Bisiou đã dịch tiểu thuyết “Không nói lời từ biệt” từ tiếng Hàn sang tiếng Pháp “Impossibles adieux” giành giải thưởng Prix Medicis danh giá của Pháp (2023). Nhưng đằng sau các dịch giả này có sự hỗ trợ to lớn của hai tổ chức lo việc đưa văn chương Hàn Quốc xuất ngoại.

Đầu tiên là Viện Dịch thuật Hàn Quốc Quốc (Literature Translation Institute – LTI) do Chính phủ Hàn Quốc lập ra năm 1996 với mục đích quảng bá văn học và văn hóa Hàn Quốc ra nước ngoài. LTI Korea thường xuyên tài trợ cho hoạt động dịch thuật và xuất bản các tác phẩm tiếng Hàn để thúc đẩy hoạt động dịch thuật văn học Hàn Quốc chất lượng cao và đang thúc đẩy nhiều chương trình trao đổi ở nước ngoài nhằm tăng cường cơ sở xuất khẩu văn học Hàn Quốc và thiết lập mạng lưới cho các nhà xuất bản Hàn Quốc và nước ngoài. Viện cũng hoạt động để bồi dưỡng các dịch giả chuyên nghiệp nhằm nâng cao năng lực dịch thuật văn học Hàn Quốc.

LTI có ba chương trình hoạt động chính là tài trợ dịch thuật, tài trợ xuất bản, và đào tạo dịch giả.

Chương trình tài trợ dịch thuật: Mỗi quý, LTI Korea lựa chọn và hỗ trợ cho các dự án dịch các tác phẩm văn học Hàn Quốc như tiểu thuyết, thơ, kịch, phi hư cấu, sách cho thanh thiếu niên, tiểu thuyết về giới và tiểu thuyết đồ họa. Mỗi đơn đăng ký được đánh giá dựa trên chất lượng bản dịch và tác phẩm gốc. Từ năm 2014, LTI Korea không hỗ trợ dịch toàn bộ tác phẩm gốc. Ban đầu, LTI Korea cung cấp khoản tài trợ cho bản dịch mẫu và khoản tài trợ cho phần còn lại của tác phẩm sẽ được cung cấp sau khi dịch giả và tác giả ký hợp đồng xuất bản với một nhà xuất bản quốc tế.

Chương trình tài trợ xuất bản: được cung cấp cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền đối với các tác phẩm được dịch với sự hỗ trợ của LTI Korea. Từ năm 2014, LTI Korea cung cấp cả khoản tài trợ dịch thuật và xuất bản cho các nhà xuất bản nước ngoài đã mua bản quyền xuất bản các tác phẩm văn học Hàn Quốc đã được dịch.

Đào tạo dịch giả: đến nay LTI đã tổ chức được nhiều khoá học đào tạo các dịch giả văn học của 44 thứ tiếng, trong đó có các tiếng chính như Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Trung, Nhật. Bên cạnh việc đào tạo LTI còn lập ra Giải thưởng dịch thuật văn học Hàn Quốc nhằm khuyến khích các dịch giả trẻ và đang hành nghề.

Tổ chức thứ hai là Quỹ Văn hóa Daesan (The Daesan Cultural Foundation – DCF), một quỹ chuyên về văn học đầu tiên và duy nhất trực thuộc một tổ hợp lớn của Hàn Quốc, và là một quỹ vì lợi ích công cộng trực thuộc Tập đoàn Bảo hiểm Nhân thọ Kyobo. Quỹ được thành lập ngày 28/12/1992 (tên gọi ban đầu là Quỹ Daesan) với mục đích đóng góp vào sự phát triển nền văn hóa dân tộc và sự toàn cầu hóa nền văn học Hàn Quốc. Giải thưởng Văn học Daesan, Chuỗi Văn học Thế giới Daesan và Cuộc trường chinh châu Á là những hoạt động nổi tiếng của Quỹ. Một trong những mảng hoạt động chính của DCF là Toàn cầu hoá văn học Hàn Quốc, trong đó tập trung hỗ trợ cho việc dịch thuật, nghiên cứu và xuất bản văn học Hàn Quốc trong các thứ tiếng. Tiêu chí ở đây là: HỖ TRỢ DỊCH VÀ XUẤT BẢN CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐÁNG ĐƯA RA TOÀN CẦU VÀ CÓ TIỀM NĂNG ĐƯỢC CÁC GIẢI THƯỞNG VĂN CHƯƠNG QUỐC TẾ. Có thể thấy rõ điều này ở Han Kang. Chỉ riêng các tác phẩm của Han Kang đã được hưởng lợi từ chín khoản tài trợ dịch thuật của DCF, bao gồm sáu đầu sách của bà bằng bốn ngôn ngữ. Bản dịch tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Người ăn chay” của Han Kang đã được DCF hỗ trợ từ năm 2014. Nhờ đó các tác phẩm của Han Kang đã có được những bản dịch tốt “củng cố vị thế của bà như một nhân vật văn học trên toàn cầu và làm tăng thêm sự quan tâm đến văn học Hàn Quốc trên toàn thế giới” như nhận xét của ông Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc. Khi biết tin Han Kang được giải Nobel văn chương 2024 ông nói: “Mặc dù tôi dự đoán đất nước cuối cùng sẽ có một người đoạt giải Nobel Văn chương, nhưng tôi thực sự ngạc nhiên khi điều đó xảy ra sớm hơn dự kiến. Bây giờ là lúc phải thực hiện những sự chuẩn bị cần thiết trong những năm tới để định hình tương lai của nền văn học Hàn Quốc trên trường quốc tế”.

Hai tổ chức này, LTI của Chính phủ và DCF của tư nhân, đã thành bệ đỡ cho các tác phẩm Hàn Quốc đi ra thế giới. Hơn 200 tác phẩm Hàn Quốc hiện được dịch hàng năm và kể từ năm 2010, các nhà văn Hàn Quốc đã giành được hai đến ba giải thưởng văn học quốc tế lớn mỗi năm, với một số năm đạt tới sáu hoặc bảy giải thưởng. Ngay sau thắng lợi của Han Kang, Bộ Văn hoá Hàn Quốc đã thông báo họ đã đảm bảo được một ngân sách cao hơn để hỗ trợ sách tiếng Hàn được dịch sau chiến thắng giải Nobel của Han Kang vào tuần trước. Bộ này dự kiến sẽ chi 48,5 tỷ won (35,4 triệu đô la) để quảng bá văn học vào năm 2025, tăng 7,4 phần trăm so với năm nay.

Đặc biệt, Bộ Văn hóa đã phân bổ 7,66 tỷ won cho Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc (LTI). Trong số tiền này, 3,12 tỷ won sẽ hỗ trợ việc xuất bản sách dịch và 4,54 tỷ won sẽ dành cho việc quảng bá chúng. Ngân sách xuất bản tăng 800 triệu won trong khi ngân sách quảng bá tăng 450 triệu won. “Chính phủ luôn ủng hộ tác giả Han Kang về các tác phẩm dịch của bà, và khi trường hợp của bà thành công, chính phủ sẽ mở rộng hỗ trợ cho các tác giả địa phương và xây dựng một hệ thống dẫn đến thành công toàn cầu của họ”, Shin Eun-hyang, một viên chức chính sách nghệ thuật tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết. “Chúng tôi cũng sẽ xây dựng một mạng lưới an toàn cho các nghệ sĩ và nhà văn để đảm bảo rằng họ có thể tiếp tục với các tác phẩm sáng tạo của mình bất chấp những điều kiện khó khăn”.

Trông người lại ngẫm đến ta. Tôi xin nhắc lại một lần nữa: chúng ta không có một chiến lược khả thi đưa văn chương Việt Nam ra thế giới. Trước nay và gần đây vẫn có những nỗ lực của các cá nhân nhà văn nhà thơ và những hội nhóm văn chương dịch văn Việt ra nước ngoài, nhưng đó là những hoạt động nhỏ lẻ, manh mún, ít tạo được tiếng vang. Cần một chiến lược quy mô quốc gia. Hãy nhìn vào Hàn Quốc và học tập họ.

1) Nhà nước cần phải lập ra một Viện dịch thuật văn chương Việt Nam như kiểu LTI. Phải đầu tư vào đó có bài bản, chương trình. Phải theo đuổi cho những tác giả được chọn có những bản dịch xứng đáng, khả dĩ có thể vào được các thị trường văn chương lớn. Tôi thấy hiện nay một nhà văn như Nguyễn Bình Phương là rất đáng để đầu tư dịch thuật và giới thiệu có hệ thống, bài bản.

2) Phải lựa chọn và ưu đãi những dịch giả cả trong nước và ngoài nước có khả năng cho ra những bản dịch văn chương chất lượng, có thể vươn tới những giải thưởng danh giá trên thế giới. Dịch giả An Lý là một người như vậy. Chị thuộc thế hệ 8x, đã có kinh nghiệm 15 năm dịch văn chương Anh-Việt với nhiều bản dịch các tác phẩm của các tác giả đương đại nổi tiếng thế giới. Tác phẩm dịch Việt-Anh đầu tay của chị là tiểu thuyết “Chinatown” của Thuận đã được nhận PEN Translates Award, một quỹ hỗ trợ các bản dịch chưa xuất bản của English PEN; vào chung khảo của các giải Republic of Consciousness Prize for Small Presses và giải National Translation Award, vào sơ khảo giải Warwick Prize for Women in Translation. Ngày 12/11/2023 An Lý đã trở thành dịch giả Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng uy tín National Translation Award của Hiệp hội Dịch giả văn học Mỹ (ALTA).

3) Lại cũng cần có sự chung tay của tư nhân, doanh nghiệp, lập ra những Quỹ văn chương như Quỹ Daesan. Cần kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào xuất khẩu văn chương Việt.

Đừng chạy theo những hội hè đình đám nữa, mà hãy đi vào thực chất. Hàn Quốc đã làm được thế mà họ còn coi giải Nobel của Han Kang như một sự khởi đầu. Tôi lại xin dẫn lời Kwak Hyo-hwan, cựu chủ tịch LTI Hàn Quốc: “Việc dịch thuật mất thời gian nhưng tôi thường nhấn mạnh đến sức mạnh của văn học. Văn học giống như một bản đồ địa hình phản ánh một thời đại hoặc một xã hội cụ thể. Một khi đã được dịch, nó không chỉ mang theo văn bản mà còn mang theo cả tinh thần của thời đại đó. Theo nghĩa đó, tác động mà nó sẽ có khi đến được với những đối tượng mới sẽ rất lớn. Giải Nobel đã đưa văn học Hàn Quốc lên vị thế trên sân khấu văn học toàn cầu, làm nổi bật ý nghĩa lịch sử và tinh thần sâu sắc, rộng lớn và phong phú của nó. Chúng ta không nên chỉ hài lòng với thành tựu này; chúng ta phải nỗ lực mở rộng và làm giàu nền tảng này. Các chính sách văn hóa cũng nên tập trung nhiều hơn vào khía cạnh này để các nhà văn mới có thể phát triển.”

Văn học Việt Nam cứ là nằm ở ngưỡng thấp, còn lâu mới lên được ngưỡng trung bình thế giới, nếu không dốc sức phá bỏ hai trở ngại nói trên. Các nhà văn hãy vượt qua chính mình và vượt qua những rào cản xã hội để sáng tạo ra những tác phẩm văn chương tiếng Việt chất lượng cao. Nhà nước hãy tạo điều kiện tốt nhất cho những tác phẩm đó có được hoá thân chất lượng cao trong các thứ tiếng khác. Còn không, kinh tế Việt Nam có thể vượt qua ngưỡng trung bình thu nhập, nhưng văn học Việt Nam vẫn nằm dưới ngưỡng trung bình sự chú ý của thế giới.

Hà Nội, 26/11/2024

Phạm Xuân NguyênFB

(Bài viết cho Hội nghị “50 năm văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và Xu thế” nhưng không kịp gửi, cũng không đến dự, nên cũng không đọc hay phát biểu. Đưa lên để mọi người đọc.)

32 BÌNH LUẬN

  1. VIỆT NAM CỘNG HÒA MUÔN NĂM!
    ***************************

    Trước đây khi bàn đến chuyện huynh đệ tương tàn, chí sĩ Montauk có viết một ý rất tuyệt :

    “HÃY COI CỘNG SẢN LÀ NHỮNG TÊN XÂM LƯỢC HƠN LÀ HUYNH ĐỆ!”

    Chỉ có những thằng ngu mạt hạng mới bảo Việt cộng cũng thuộc Việt Nam không thể chối cãi. Việt cộng thuộc về….Tàu cộng không thể chối cãi mới đúng!

    Montauk viết: “Năm 79 hổng phải là xâm lược . 1975 mới là xâm lược . 1979 dân miền Nam mong Trung Quốc oánh chít mịa tụi bay, coi như 2 thằng Cộng Sản choảng nhau, thía thui!”

    Bởi vậy mới nói, sự xuất hiện của Montauk trên diễn đàn Đàn Chim Việt như sự xuất hiện của mặt trời giữa đêm khuya tối tăm vậy!

    • VIỆT NAM CÔNG HÒA MUÔN NĂM!
      ***************************

      Montauk viết :

      “….Nhớ rõ lời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đừng nghe những gì Cộng Sản nói . Đứa nào là đảng viên, rứa đo, rứa đo . Đứa nào xuất thân từ gia đình Cách mạng, sêm xít . Phúc them (fuck them!)””
      ******************

  2. Tôi không biết Phạm xuân Nguyên là
    ai, nhưng đọc bài viết có thể biết ông
    ta chịu ảnh hưởng của nền học thuật,
    văn học,nghệ thuật mang màu sắc
    chánh trị của miền Bắc “XHCN” đặc sệt.

    “Văn học VN”, chẳng hiểu Phạm xuân
    Nguyên muốn nói đến cái gọi là “văn
    học lề trái” ,”lề phải “, hay cả hai bao
    gồm cả những tác phẩm được sáng tác
    bởi người Việt sống bên ngoài VN ,được
    tự do trong môi trường sáng tác .

    “Nỗi Buồn Chiến Tranh” là tác phẩm
    thuộc “lề trái” ,có cái chỗ đứng nghệ
    thuật của nó ,bị cấm ở trong nước trước
    kia,và được dịch thuật ,in ấn và lan
    rộng ở hải ngoại . “The Sympathizer”
    của Nguyễn thanh Việt được dịch
    ngược lại thành bản tiếng Việt và bị
    cắt xén ,kiểm duyệt in ấn trong nước.
    Dòng văn học “lề phải ” như thơ của
    Tố hữu, thơ thẩn của Hồ chí Minh ,nếu
    được dịch ra Anh ngữ, cũng chẳng có
    ma nào thèm đọc .

    Tụi cộng sản Việt Nam , coi văn học
    chỉ là một thứ công cụ để tuyên truyền
    cho mục đích chánh trị .Nobel không có
    cái giải thưởng nào cho văn chương
    phục vụ chính trị cả . Dịch thuật ra
    Anh ngữ để làm gì nhỉ, Phạm xuân
    Nguyên có cái nhìn quá ngây ngô của
    một người sống và bị nhồi sọ quá kỹ
    càng bởi bọn lưu manh Việt cộng .

    • Ông ta không chịu ảnh hưởng, ông từng là chủ ch*ch -từ của Gs Chu Mọng Lông- hội nhà văn, ông có nhiệm vụ phát triển nó

    • Oh, rất xin lỗi vì cái còm (rất) thiếu văn hóa, lộ ra mình là bò đỏ ở trên . Phạm Xuân Nguyên là Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt NAM, được mọi người kính mến . Văn Việt Cộng là 1 phần của văn Việt Nam, theo tư di của 1 trí thức có vẻ được nhiều -bao nhiêu hổng bít- ngưỡng mộ

      Só zi, lộ ra bản chất bò đỏ của mình gòi

  3. Văn học VC, tiêu chí là Mít đặc tứ khoái.

    Ăn ngủ đ. ĩa. Hết. Nói đến văn học là nói đến sách vở, tiểu thuyết, thi ca, báo chí, truyền thông. Gọi chung là tiếng nói. Tiếng Việt. Tiếng Việt hiện nay là gì ngoài ăn ngủ đ. ĩa ? Cán bộ thì ăn nói láu cá, mị dân, lừa đảo. Dân chúng thì nói năng ngọng ghịu robot máy móc. Có cái đếc gì đâu là văn minh học thuật và thưởng ngoạn giải trí từ văn học VC !!! Xin lỗi, cho không TH tôi còn … địc nữa là đọc. Ở Mỹ không có thịt heo hả !!! Ha ha ha !!!

  4. Bàn chuyện về văn học và nghệ thuật với cộng sản chẳng khác gì chúng ta đang nói chuyện trên mây trời. Tự do không có, bị cộng sản cai trị làm nô lệ cho chúng mà bị chúng gán là ông chủ của chúng.

    Một số người biết và viết về chuyện con ếch bị luộc trong nồi mà không chịu nhìn nhận chính một số đông người Việt tỵ nạn cộng sản bị cộng sản nó luộc từ một người tỵ nạn nay quay đầu về chẳng khác gì con ếch bị luộc nhưng cộng sản không luộc cho chết mà chỉ luộc đủ để mang lại lợi ích cho chúng.

    • Tự Do is way overrated ở cả trong lẫn ngoài nước . Nguyên Ngọc đã có cách gầy dựng lại văn học Cách Mạng & bằng chứng là Bảo Ninh & đoạn trích của Tạ Duy Anh . Để tạo nên 1 tác phẩm lớn, no matter what, cần có lòng tin & trải nghiệm sống . Nguyên Ngọc đã tạo được cái nền “mới” cho văn học Cách Mạng, & từ cái nền này, nếu Đảng mún phát chiển, có thể tạo ra nhiều “tác” phẩm kiểu Bảo Ninh hơn nữa, & Phạm Xuân Nguyên đưa ra những đường hướng, trước khi tớ còm, (rất) nhiều người ủng hộ

      Deep down, hổng ít người nghĩ Việt Cộng là Việt Nam, nên hễ có ý kiến ý cò gì về phát chiển văn hóa Việt Cộng, allez-hop, mọi người đều góp lời bàn vô constructive, để cho ý kiến của Phạm Xuân Nguyên hoàn thiện hơn thui . Họ cũng có lòng với văn hóa Việt Cộng lém đấy chớ

      • Con người – hay nói rộng lớn hơn là dân tộc và chế độ, là hai thực thể khác nhau vì chế độ và tên nước sẽ thay đổi, không tồn tại; nhưng dân tộc và đất nước thì vẫn luôn tồn tại không thay đổi. Montaukmosquito thường nhầm lẫn hay cố tình đánh đồng nhất thể hóa hai khái niệm Việt Cộng và VN chung là một chỉ vì đất nước, dân tộc và chế độ cộng sản có chung cái tên là VN và đang bị đảng cộng sản VN cai trị. Điều này là hoàn toàn sai.

        Việt Cộng cũng thuộc về VN và điều này không thể chối cãi, nhưng đất nước và dân tộc VN không phải là của Việt Cộng. Phải phân biệt tuy hai mà là một nhưng tuy một vẫn luôn luôn là hai. Thể chế hiện tại là chế độ cộng sản và Việt Cộng đang cầm quyền cai trị đất nước nên lợi ích của VN là nói lợi ích riêng của chế độ cộng sản đang cai trị; nhưng lợi ích quốc gia và dân tộc thì là một khác và là lợi ích chung của dân tộc.

        Dân tộc VN bị đảng cộng sản lừa cướp quyền dựng lên chế độ cộng sản nắm quyền cai trị đất nước và lừa cướp luôn cái tên VN.

        Ở hải ngoại tự do chúng ta có tự do ngôn luận nên nói gì cũng được mà không sợ Việt Cộng bắt bỏ tù, nhưng người VN sống ở trong nước dưới sự kìm kẹp của chế độ cộng sản, họ không có tự do ngôn luận để nói như chúng ta nên người trong nước nói VN là nói chung cho tất cả; nhưng người bên ngoài thì phân biệt rạch ròi Việt Cộng là Việt Cộng, là thành phần đang cai trị đất nước, còn nói VN là nói chung về đất nước và dân tộc VN.

        • dont even bother trả lời những cáo buộc của lũ này . Chỉ lói thía lày, ai mún biện hộ cho Cộng Sản bắt buộc phải dùng tới quỷ biện, từ của tớ, vì ngụy biện đã bị vượt wa từ lâu .

          Đọc cái quỷ này

          “Việt Cộng cũng thuộc về VN và điều này không thể chối cãi, nhưng đất nước và dân tộc VN không phải là của Việt Cộng. Phải phân biệt tuy hai mà là một nhưng tuy một vẫn luôn luôn là hai”

          & hắn cáo buộc tớ là đánh đồng Việt Cộng với Việt Nam … Mofo.

          & more “Dân tộc VN bị đảng cộng sản lừa cướp quyền dựng lên chế độ cộng sản nắm quyền cai trị đất nước”

          Đảng Cộng Sản là cái gì, là 1 tập hợp . Ai bị lừa, chả ai bị lừa cả . Níu nói là “cả dân tộc” bị Cộng Sản lừa, … uh, well, ai cũng nghĩ mình thông thái hít . Và để vượt wa được 1 cuộc chiến tranh mà mất mát (có thể) lên đến 1 con số, mà nếu ghi rõ thật ra sẽ làm mọi người trên thế giới kinh hoàng . Bao nhiêu chịu đựng như vậy … Mỹ thuộc thế giới văn minh hàng đầu nên những thiệt hại đau thương Mỹ gây ra chắc chắn hổng thỉa là nhỏ . Yet, họ cứ vững tin. và niềm tin của họ đã tạo ra “chiến thắng huy hoàng” Nguyên Ngọc nhắc lại, làm củng cố niềm tin của họ

          Ừ thì các vị nghĩ sao tùy các vị . you do you, i do me. Hổng thích thì go Phúc yoself

        • i take it some of you dont like me. No problem, the feeling is mutual

          Nhưng só zi, tớ hổng còn ở Việt Nam . Níu nói ngay cả hổng ở Việt Nam cũng phải tuân theo những luật lệ hổng thành văn như ở Việt Nam … Well, you mới chứng minh tại sao Cộng Sản thắng ở Việt Nam

          Đôi khi nó thắng hổng phải vì nó có đủ lý do & chính nghĩa để thắng . Nhưng có thỉa Cộng Sản thắng ở Việt Nam nhờ dân Việt nghe lời những quỷ biện của mấy người

        • @Bees:”Montaukmosquito thường nhầm lẫn hay cố tình đánh đồng nhất thể hóa hai khái niệm Việt Cộng và VN chung là một chỉ vì đất nước, dân tộc và chế độ cộng sản có chung cái tên là VN và đang bị đảng cộng sản VN cai trị. Điều này là hoàn toàn sai.“

          Phân tích của anh Bees hoàn toàn chính xác.
          Vì thế nếu bất cứ ai vẫn còn có lối lập luận kiểu montaukmosquito thì tôi sẽ quyết đoán họ là những kẻ “lập lờ đánh lận con đen”, hay kẻ tráo bài Ba lá bịp bợm trên hè phố.

          Và tôi tâm đắc câu này hơn nữa, vì nó đơn giản mà đầy đủ nghĩa nhất:

          “Việt Cộng cũng thuộc về VN và điều này không thể chối cãi, nhưng đất nước và dân tộc VN không phải là của Việt Cộng“

          Cho nên ô/b nào nhân danh tị nạn mà cứ nhập nhằng Việt Cộng hay VNCH cũng là của chung thì tôi sẽ kết luận kẻ đó vẫn còn ngu ngốc hoặc nằm vùng nội tuyến, vì họ cũng chỉ là RINO (refugees in name only).

          • Hy vọng tay “chí sĩ” Montau ,đọc
            được mấy cái còm ở trên mà khép
            cái mõm lại một tí . Kể cũng khổ
            cho cái thân làm bò đỏ ,cứ phải
            giả mù sa mưa mà phét lác ,láo
            lường ,giả vờ ngây ngô để bốc phét.

            Ăn nói quá lịch sự nhu Bees và Quan
            Sát kể cũng hay . Không biết bọn bò
            đỏ ,chúng có thấm được một tí nào
            hay không ? Nói chuyện với bọn ngu
            thật là bực mình ,nói chuyện với bọn
            giả vờ ngu càng là một cực hình .

        • Chỉ lói thía lày, qua những vụ việc vừa rùi, sẽ có lúc người ta nhìn được sự khác nhau cơ bản giữa Việt Cộng & Việt Nam Cộng Hòa, và chính sự khác nhau về cơ bản này đã cho thấy nhiều điều . Tuyệt vời là thiểu số to mồm không mún thấy & cố làm át nó đi bằng kêu gọi, bằng sự nhập nhằng 1 cách gian lận

          Sự nhập nhằng gian lận này, dù phát xuất từ ý tốt, không nằm ngoài cho mục đích “hòa giải hòa hợp” để giữ nguyên trạng status quo, VNCH ở Viêt Nam hiện giờ đang ăn mày Việt Cộng, & điều này xảy ra từ 1975.

          This i can promise, nếu có bầu cử đàng goàng ở VN & phe tớ thắng, cái status quo này sẽ bị đảo ngược hoàn toàn

        • Phe tớ sẽ run solely on sự khác nhau giữa VNCH & Việt Cộng . All i need is win, & we will do everything we can để win, và tớ tin rằng Việt Cộng, chỉ cần họ là chính mình như vừa rùi, đủ để cho đa số dân chán ngán, ngay cả trong chính chúng nó. Điển hình là ngay cả thằng 5C cũng ẻ lên bàn thờ nhà nó, & lấy hình bố mình mặc quân phục ra chích đùi . Có thể nó sẽ không bỏ phiếu cho tớ, nhưng những người như nó sẽ . After that, dân Việt Cộng & lũ cảm tình viên nên sợ, hoàn toàn có lý do chính đáng

  5. Zìa chiện dịch, Việt Nam có rất nhiều stable geniuses, thách thức dân hải ngoại bằng íng lịt maze in chín xu, tại sao hổng trưng dụng họ, thay vì thả rông làm chó ngao chiên za chích đùi ? Đúng, nhân sĩ-trí thức cần chó ngao chiên da chích đùi, tay làm hàm nhai, cha truyền con nối, cha chùi con đớp, nhưng quỹ thời gian của họ khá dồi dào, dư xăng đảm nhiệm chiện dịch linh tinh, và nhứt là những stable geniuses chúng nó cảm được văn học Việt Cộng mà RF Phúc Kđinh A gọi là Nam .

    Và nên dùng trí thức hải ngoại . Đinh Từ Bích Thúy dịch Lâm Thị Mỹ Dạ, vợ Hoàng Phủ Ngọc Tường là 1 ví dụ khá kinh hoàng . Bài thơ Lâm Thị Mỹ Dạ viết cho chồng là HPNT, arts of the Deranged rite there. Người ta đang lùng 1 lá thư tình của Ted Bundy gửi cho gf của mình, bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ viết cho chồng có thể xem như ngược lại, gh của Ted Bundy viết 1 lá thư tình cho hắn . Tồn tại những collectors of the macabre, kiểm bản viết tay ra bán đấu giá .

  6. Trích:
    “Đừng chạy theo những hội hè đình đám nữa, mà hãy đi vào thực chất. Hàn Quốc đã làm được thế ….”

    “Hàn Quốc đã làm được thế…” ….là vì Hàn Quốc là một quốc gia Dân Chủ, có tự do ngôn luận, có tự do tư duy nên các tác phảm văn học của họ phải mang “tính nhân bản” và nhất là phải trung thực’ Người viết, người nói không bị trói tay, bịt miệng.

    Còn CHXHCNVN là một quốc gia nhân dân làm chủ (hic!) nhưng do nhà nước quản lý và khẳng định là phải do đảng lãnh đạo, mà cũng vì do “đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”….nên các “tác phảm văn học hay nghệ thuật” ..nhất nhất đểu phải mang tính đảng…(mà eo ôi! “đảng” thì thối như kít!)

    Thử hình dung:

    Trên đường đua, Một thằng chạy thoải mài, còn một thằng thì bị trói tay, trên lưng lại phải cõng cả “bác và đảng” nữa, thì thử hỏi thằng nào chạy đẹp hơn, chạy nhanh hơn????

    Điều đơn giản này mà tác giả không biết sao? hay tac giả biết nhưng sợ “đảng”, sợ phạm húy nên vờ …không biết???

    Tội nghiệp Phạm Xuân Nguyên!!

    • Hahaha, oh, dân mềnh! Hy vọng mọi người đọc kỹ dùm, ổng ca ngợi “Nỗi bùn chiến chanh” của Bảo Ninh

      & nên đọc NBCT của Bảo Ninh, để bít tại sao ổng ca ngợi

      Đây là trích Tạ Duy Anh, với 1 ý tương tự . Oh, và “tộ” phẩm này được hải ngoại in & phát hành

      “Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến trận”

      Phạm Xuân Nguyên có 1 nhận định khá chính xác sau khi đọc hồi ký chiến tranh của Nguyên Ngọc, là tinh thần chống Mỹ đã trở thành dân tộc tính, và vì vây., bất tử . Đúng, nếu dân tộc đó là dân tộc XHCN, aka thằng 5C trăm ngàn nicks

      Oh, và phát hiện “thằng” 5C trăm nicks thuộc loại anh chị; lúc anh lúc chị

      • Sự thật của văn học VC là gì?
        Thx Montau với đoạn trích từ Tạ Duy Anh. Tôi không thể tin chuyện như thế, dịch ra Anh ngữ làm gì. Tôi không theo dõi văn học VC tràn lan sau 1975, tôi có đọc một ít, rất vô văn học. Tôi không theo dõi khi đó hay bây giờ, nên đừng tin tôi. Hãy tự tìm hiểu.
        Nói về chiến tranh VN & ngày nay, tôi liên hệ với chiến tranh Palestine, có thể khóc với nhà văn còn sống và đã chết từ Amy Goodman Democracy Now yt Nov 29, 2024: Mosab Abu Toha is a Palestinian poet, scholar, and librarian from the Gaza Strip còn sống. Và Refaat Alareer đã chết. Một rừng ầm ĩ (của bom đạn, của tiếng khóc than…của chiến tranh)
        If I must die,
        you must live
        to tell my story
        to sell my things
        to buy a piece of cloth
        and some strings,
        (make it white with a long tail)
        so that a child, somewhere in Gaza
        while looking heaven in the eye
        awaiting his dad who left in a blaze—
        and bid no one farewell
        not even to his flesh
        not even to himself—
        sees the kite, my kite you made, flying up
        above
        and thinks for a moment an angel is there
        bringing back love
        If I must die
        let it bring hope
        let it be a tale.
        (Refaat Alareer)
        https:// www. democracynow. org/2024/11/29/forest_of_noise_palestinian_poet_mosab

        • for starter, là đảng viên ĐẢNG CỘNG SẢN, & lun cổ vũ, mún phát chiển những thứ Cộng Sản

          Phạm Xuân Nguyên là chủ ch*ch -từ của Chu Mọng Lông- hội nhà văn, phải là đảng viên mới làm được cái chức vụ đó . Một bài tìm phương cách để phát triển nền “văn học” Việt Cộng 2.0 mà bác hưởng ứng nhiệt liệt thế … OK, đúng là có tí tẹo phê phán, ở những thứ technical … thì cũng phải gọi là hết biết!

          Nó ca tụng NBCT của Bảo Ninh, 1 đội thám báo của liên quân Mỹ-VNCH bắt được bộ đội cái giao liên, hiếp, giết rùi còn xẻo bộ phận sinh dục, thía mà nhìn hổng ra

          Níu thía mà nhìn hổng ra thì quên đi dượng ơi

          • He he he …

            Tớ chỉ đọc bài của Phạm Xuân Nguyên trên này thôi, và do đó tớ chỉ “phản hồi” cái ý chính của bài viết này thôi. Còn cái cái “lỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh hay Bảo Nịnh gì đó thì tớ đờ…éo thèm đọc, vì tớ biết là nó – (Bảo Nịnh) – chắc chắn sẽ đờ …éo có thể viết một cách tử tế, trung thực dưới cái bàn ..tọa của đảng được. (chưa đọc mà đã biết nó chứa đựng những điều dối trá thì đọc làm …éo gì!)

            Thế cho nên xin miễn bàn với tớ về cái “tác phẩm” mang tên Lỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh hay Bảo Nịnh gì đó nha.

          • Nên đọc NBCT của Bảo Ninh, vì nhiều trí thức-nhân sĩ nói tác phẩm đó đấm vỡ mồm những ai mún phủ định hy sinh của dân tộc TA trong chống Mỹ .

            Phản hồi cái “ý chính”, làm nhớ tới đồng chí chính ủy của độc giả BTD. Đồng chí chính ủy đó cũng thuộc loại anh chị, lúc anh lúc chị lém lém lun . Wan điểm chính chị chính anh của đồng chí này cũng stereo như zị, có nghĩa Đảng các bác thuộc loại inclusive rùi . Lý lịch đỏ bi giờ cũng đa hệ tá lả lun, Đảng càng ngày càng zui

          • Có con nối dõi, coi như xong bổn phận với tổ tiên, bạn có thể sống thật với mình được gòi

            Hèn chi …

        • Xem ông khuyên Việt Cộng gộc, con nhà nòi Phạm Xuân Nguyên nè

          “Điều đơn giản này mà tác giả không biết sao? hay tac giả biết nhưng sợ “đảng”, sợ phạm húy nên vờ …không biết???”

          Hổng bít ông chống ccc gì, nhưng chắc chắn hổng phải chống Cộng gòi

  7. Văn học VC, tổ chức bồ nhí của đảng

    Bồ nhí là dạng con gệ chỉ biết nhỏng nhảnh dzốn bộ đồ lòng tự có, trang điểm, và nằm ngữa chờ đảng… địc. Hết. Tốn kém và bịnh quá !!! Mít đặc ơi là Mít đặc ngu ơi là ngu ! Ha ha ha !!!

  8. Cuồng nào cũng là thứ cuồng ngông!

    “Ôn cố tri tân” những tinh hoa
    Bốn ngàn năm lịch sử dân tộc
    Văn minh tân tiến xứ Cờ Hoa
    Đạo làm người ta cần phải học

    “Trung với vua” Nho giáo đã trật
    Cuồng Hồ cuồng đảng là thú vật
    Thì bây giờ người Việt cuồng Trump
    Câu trả lời dành cho các bạn

    Cuồng Hồ cuồng đảng hay cuồng Trump
    Cuồng nào cũng là thứ cuồng ngông!

    Nông Dân Nam Bộ

    • Cuồng Hồ & cuồng Đảng, nếu cuồng đúng cách sẽ được gọi là nhân sĩ-trí thức

      Cuồng Trump sẽ bị nhân sĩ-trí thức cuồng Đảng cuồng Hồ lên án .

      Easy-peasy

  9. Bạn vẫn không nhận ra?

    Bàn thờ trong mỗi nhà
    Để thờ cúng Ông Bà
    Là tư tưởng cốt lõi
    Của người Việt chúng ta

    Trong dân gian được hiểu
    Như Tam Giáo Đồng Nguyên
    Còn đó Tam Tông Miếu
    Phật – Khổng Tử – Lão Trang

    Đại đa số dân tộc
    Mà từ ngàn năm qua
    Coi đó như một đạo
    Di sản của Ông Cha

    Với một thằng ba xạo
    Cùng bầy đàn MAGA
    Tôn thờ là lãnh tụ
    Ta phỉ báng Ông Cha!

    Bạn vẫn không nhận ra?

    Nông Dân Nam Bộ

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên