Nguyễn Ngọc Trân: Logic phát triển gây sạt lở và khuyến nghị

Việc sạt lở đất ở đồng bằng trước đây diễn ra theo quy luật tự nhiên nay mang tầm vóc và quy mô khác, lớn hơn nhiều.

1
Một vụ sạt lở bờ sông xảy ra tại quận Cái Răng, Cần Thơ. Hình: báo Giáo dục.

Là hai tỉnh đầu nguồn của đồng bằng, An Giang và Đồng Tháp chứng kiến sự bồi tụ và sạt lở lòng sông trên địa bàn của mình nhiều hơn hẵn các tỉnh khác. Sơ đồ những địa bàn sạt lở ở hai tỉnh được thể hiện trong Hình 1Hình 2.

Hình 1. Những vị trí đã và có khả năng xảy ra sạt lở ở An Giang (Báo cáo 2011)
Hình 2. Những vị trí đã và có khả năng xảy ra sạt lở ở Đồng Tháp (Báo cáo 2011)

Đối chiếu hai hình này với một tài liệu của Ủy hội sông Mekong (2013) về các hố sâu trên dòng chính sông Mekong ở hạ lưu vực (1) (Hình 3) có một sự tương quan cao giữa các vị trí sạt lở và các hố sâu.

Hình 3.(a) 22 hố sâu trên sông Tiền và sông Hậu, (b) Sơ đồ địa hình vùng sông Tiền và sông Hậu chảy qua An Giang, Đồng Tháp (Nguồn của sơ đồ địa hình: Chương trình 60-B)
  1. Tại sao An Giang và Đồng Tháp có nhiều vị trí đã và có nhiều khả năng sẽ xảy ra sạt lở?

Về mặt tự nhiên, thứ nhất vì hai tỉnh ở đầu nguồn nơi sông Mekong và sông Bassac chảy vào đồng bằng tại Tân Châu và Châu Đốc. Lưu lượng nước tại trạm thủy văn Tân Châu lớn nhất vào mùa lũ so với các trạm thủy văn khác trên sông Tiền. Lượng trầm tích qua đây đầu tiên trước khi phân bổ ra khắp đồng bằng.

Sông Vàm Nao, ban đầu chỉ là một sông nhỏ nối liền sông Tiền với sông Hậu, dần dần rộng ra và sâu thêm, hiện đóng vai trò cân bằng lưu lượng giữa hai sông.

Thứ hai, triền của lòng sông Tiền lớn nhất ở đồng bằng, trên nền địa chất trầm tích bở rời (2) là điều kiện thuận lợi cho việc xói sâu các hố.

Thứ ba, sông Tiền – sông Hậu – sông Vàm Nao có nhiều khúc quanh gần thẳng góc, một điều kiện khác cho phát sinh và phát triển các hố sâu. Ba lý do này giải thích sự biến động mạnh của hai bờ sông Tiền tại Tân Châu từ 1966 đến 2007.

Hình 4.Diễn biến của bờ sông Tiền

Về mặt kinh tế xã hội, do nằm trong vùng ngập lũ sâu, người dân hai tỉnh từ thuở vào vùng đất này lập nghiệp, đã sinh sống dọc theo đê ven sông nơi cao và được nâng lên mỗi năm sau mùa lũ với phù sa do lũ mang về. Nhà sàn, cầu tre xuồng ba lá gắn liền với cuộc sống của người dân nơi đây. Từ đó hình thành một phương thức quần cư dọc theo sông, kênh, rạch và theo đường giao thông bộ được xây dựng trên đê. Trong Hình 5 nổi lên các đê ven sông trong mùa lũ.

Hình 5. Đê ven sông Tiền và sông Hậu cuối mùa lũ (trái) và đầu mùa lũ (phải)

Nền kinh tế hàng hóa phát triển dẫn đến quá trình đô thị hóa. Cát sông, vật tư không thể thiếu, được khai thác ngày càng nhiều.

Bắt đầu là “thổi” cát sông để tôn nền nhà trong các thị trấn, thị xã. Rồi tăng mạnh từ ba thập kỹ nay với chương trình cho dân vay tôn nền nhà và chương trình xây dựng những khu dân cư, tuyến dân cư vượt lũ.

Đã là thị trấn, phải phấn đấu lên thị xã, rồi lên thành phố các loại từ thấp lên cao, với những tiêu chí đòi hỏi phải xây dựng, nghĩa là cần tới cát. Việc khai thác cát sông Tiền sông Hậu trở thành một ngành kinh tế phục vụ chẳng những hai tỉnh, cho đồng bằng mà còn cho cả Thành phố Hồ Chí Minh và dường như còn bán cả ra nước ngoài! Việc sạt lở đất ở đồng bằng trước đây diễn ra theo quy luật tự nhiên (“dòng sông bên lở bên bồi”) nay mang tầm vóc và quy mô khác, lớn hơn nhiều.

Ứng phó với sạt lở ở thị trấn, thị xã khác với trong nông thôn. Phải kè để bảo vệ tài sản của xã hội và tính mạng người dân. Thế nhưng kè hóa bờ sông biến biên bờ sông mềm (biến dạng được) thành biên cứng.

Xói ở thân kè không được dòng chảy sẽ xói ở đầu kè, cuối kè, dọc theo lòng sông, hoặc tác động sang phía bên kia sông, hoặc xa hơn về hạ lưu. Cứ thế kè rải ra ngày càng nhiều dọc theo sông. (Hình 6) Lại cần đến cát sông.

Kè mà Trung Quốc xây dựng dọc theo bờ sông Bắc Luân đã lấy đi đất của Việt Nam (Móng Cái) bồi sang bờ trái, từ đó khi phân chia đường biên giới giữa hai nước đã lấy đi gần 1/3 bãi bồi Tục Lãm và dịch chuyển hẵn đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ về phía Nam. Điều này nhắc sự thận trọng cần thiết khi “chỉnh trị” sông. Chỉnh trị phía An Giang phải nghĩ đến Đồng Tháp, Cần Thơ. Chỉnh trị ở Đồng Tháp, phải nghĩ đến An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, … Nghĩa là phải nhìn việc “chỉnh trị” với quan điểm hệ thống và động và phải tính đến các hậu quả tích lũy theo không gian và theo thời gian vào trong tính toán “Được – Mất” trên cả ba mặt kinh tế, môi trường và xã hội của mọi dự án chỉnh trị. 

Lôgic phát triển nói trên đây có cần suy nghĩ lại không, trên những mặt nào? Chắc một điều, lôgic này đã góp phần không nhỏ vào việc gia tăng sạt lở ở An Giang và Đồng Tháp. Và không chỉ ở hai tỉnh này, không chỉ hôm qua và hôm nay.

Về kinh tế – xã hội còn phải nói thêm vụ lúa Thu Đông. Từ gần hai thập kỷ nay rộ lên làm lúa vụ 3, vụ Thu đông. Bài viết này không bàn đến bảng kết toán Được – Mất của việc canh tác ba vụ lúa trên cả ba mặt kinh tế, môi trường và xã hội (một nội dung hết sức cần làm rõ một cách khách quan và khoa học để tạo nên sự đồng thuận từ các cấp ủy đến toàn xã hội) mà muốn chỉ ra là làm đê bao triệt để để làm ba vụ lúa có thể góp phần gia tăng sạt lở.

Quyết định 101/QĐ-BNN-TT ngày 15.01.2015 của Bộ NNvPTNT đề ra các chỉ tiêu pháp lệnh cho 13 tỉnh thành phố ĐBSCL, trong đó phần cho An Giang và Đồng Tháp được trích riêng ra dưới đây, theo đó đến năm 2030, An Giang và Đồng Tháp lần lượt sẽ canh tác 163.000 và 120.000 ha lúa Thu Đông.

Thế nhưng để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch kinh tế – xã hội năm 2016, An Giang và Đồng Tháp lần lượt đã canh tác 184.000 và 144.000 ha vụ Thu Đông 2016.

Hãy trở lại Hình 5. Những vùng ngập giữa sông Tiền sông Hậu, một phần bên tả ngạn sông Tiền của Đồng Tháp (trong Đồng Tháp Mười) và một phần bên hữu ngạn sông Hậu của An Giang (trong Tứ giác Long Xuyên) sẽ không bị ngập nữa vì đã được bao đê triệt để. Một lượng nước lũ rất lớn, mà đáng lý tràn vào các vùng bao đê, sẽ chảy ra sông Tiền và sông Hậu, (3) làm tăng lưu lượng của dòng chảy trên sông Tiền và sông Hậu, gây thêm sạt lở.

  1. Làm gì để ứng phó với sạt lở?

Hiện nay Đồng Tháp đã xây dựng 6 kè (ở Thường Thới Tiền, huyện Hồng Ngự; ở TX Hồng Ngự; ở xã Bình Thành, huyện Thanh Bình; ở xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò; ở Thành phố Sa Đéc; và ở xã An Hiệp, huyện Châu Thành).

Một dự án “Quy hoạch chỉnh trị sông Tiền các khu vực xói bồi trọng điểm” của tỉnh Đồng Tháp đã được đề xuất (4) với 24 công trình được phân kỳ thành 3 giai đoạn từ 2015 đến 2030, với tổng vốn đầu tư là 3228 tỷ đồng. Xem Bảng dưới đây.

Ngoài những gì đã nói về chỉnh trị sông trên đây, tác giả không bình luận thêm về dự án. Sau đây là mấy khuyến nghị để ứng phó với sạt lở.

  1. Theo dõi thường xuyên diễn biến của bờ sông (bồi và xói) và lòng sông bằng ảnh vệ tinh, bằng đo siêu âm và bằng mô hình toán ở những nơi cần đặc biệt theo dõi (5).
  2. Các cồn bãi nổi lên giữa dòng sông, các bãi bồi dọc sông, nếu được khai thác đúng chỗ, đúng khối lượng và đúng lịch trình sẽ làm mất đi một nguyên nhân làm thay đổi dòng chảy kéo theo xói lở.
  3. Trong quy hoạch không gian của tỉnh, cần suy tính kỹ bố trí các thị trấn, thị xã, huyện lỵ, … với tư duy dành không gian cho dòng sông trong giao diện với con người, chứ không đối đầu, khống chế, chỉnh trị dòng sông. Hạn chế tối đa giải pháp kè, chỉ dùng đến khi không còn giải pháp nào khác. Không gian này, rộng ra hay hẹp lại tùy theo bờ sông được bồi tụ hay bị xói lở, có thể được sử dùng cho nhiều mục tiêu, cho canh tác nông nghiệp chẳng hạn.

Khái niệm “chỉnh trị sông” ở các nước như Hà Lan, CHLB Đức, Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ, … từ những năm cuối của thế kỷ trước đã chuyển từ khống chế dòng chảy theo ý muốn của con người sang dành không gian cho sông (rooms for rivers), nếu cần phục hồi các bãi sông, dỡ bỏ các công trình gia cố bờ bằng bê tông, tái tạo các dải thực vật ven bờ, khôi phục và cải thiện hệ thống sinh thái sông ngòi…

  1. Các việc cần làm trên đây đòi hỏi có sự phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, đồng thời sự phối hợp chặt chẽ giữa các Sở Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, và Giao thông.
  2. Cuối cùng và trên hết là sự đồng điệu trong tư duy về dòng sông và phát triển lãnh thổ, và trên cơ sở đó sự liên kết giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

———————

Chú thích:

(1) MRC, Atlas of deep pools in the Lower Mekong River and some of its tributaries, MRC Technical Paper N.31, August 2013.

(2) Trần Kim Thạch 1986, Địa chất trầm tích đồng bằng sông Cửu Long, báo cáo đề tài của Chương trình Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

(3)Theo cơ quan đã xây dựng quy hoạch thủy lợi cho tỉnh An Giang, “Khi xây dựng đê bao theo quy hoạch (2A) mực nước trên sông chính trong lũ chính vụ tăng lên khoảng 15 cm tại Tân Châu và 18 cm tại Châu Đốc.so với hiện trạng năm 2000”.

(4) Dự án do Viện Kỹ thuật Biển thuộc Bộ NNvPTNT xây dựng năm 2015 giúp cho UBND tỉnh Đồng Tháp thông qua một hợp đồng.

(5) Thật ra hai vụ sạt lở gần đây tại ấp Mỹ Hội, xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới (An Giang) và tại ấp Bình Hòa, xã Bình Thạnh, huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) đã được báo trước ít nhất là từ 10 năm nay nếu theo dõi ảnh vệ tinh và quan sát dòng chảy ở hai nơi này.

GS Nguyễn Ngọc Trân (Nguyên Chủ nhiêm Chương trình khoa học nhà nước 60-B “Điều tra cơ bản tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long” (1983-1990). Đại biểu Quốc hội các khóa IX, X, XI).

(Đất Việt)

1 BÌNH LUẬN

Leave a Reply to Thế kỷ Hủy phản hồi

Please enter your comment!
Tên