Hồ Chí Minh dứt khoát không phải tác giả …

14
HCM. Ảnh Internet

Về Hồ Chí Minh có lắm điều cần tìm hiểu cho rõ nguồn gốc, sự thật . Nhứt là về các bản văn mà giá trị liên quan đến một giai đoạn lịch sử Việt Nam, xưa nay, người cộng sản cứ thản nhiên gắn tên Hồ Chí Minh là sở hũu chủ, là tác giả sáng tác, là của bác đó . Họ nói dễ dàng, một phần vì đầu óc của họ không biết phản ứng, không quen thắc mắc, mặt khác cứ nói “của bác” thì không bao giờ bị chê khen, phê phán và chắc chắn có tiền, có nhiều nữa, sau đó còn lên chức .

Đến ông Đặng Thái Mai, Giáo sư Văn học, bố vợ Đại tướng Vọ Nguyên Giáp, năm 1959, nhận nhiệm vụ hiệu đính Ngục Trung Nhựt ký, thắc mắc về con số ghi năm 1932-1933 trên bìa sách, vừa trình lên, đã vội “không thắc mắc nữa” . Nhờ “có trí tuệ xhcn” mà sau đó, ông được thăng chức “sếp”.

Tuy biết nay có nêu lên vài nghi vấn hay vài sự thật hiển nhiên về một vài văn kiện gắn tên Hồ Chí Minh là tác giả để cái sai được đính chánh, sự thật được trả lại, cũng sẽ không thắm vào đâu đối với số sách vở, báo chí của chế đội từ gần thế kỷ nay rầm rộ tưng bốc Hồ .

Nhưng cứ làm, hi vọng một lúc nào đó, bất chợt, ở trong nước, có người đọc, suy nghĩ, vụt thấy bác Hồ ta và cái đảng ta đúng là một tổ hợp bài 3 lá vĩ đại !

Nay ta cứ xác nhận lại 3 văn kiện sau đây dứt khoát không phải Hồ Chí Minh là tác giả .

Hồ Chí Minh không phải tác giả Ngục Trung Nhựt ký

Theo học giả Lê Hữu Mục, trong quyển sách “Hồ Chí Minh Không Phải Là Tác Giả Ngục Trung Nhật Ký“, 1990, ông đã đưa ra đầy đủ bằng chứng để kết luận tập thơ này ra đời dưới sự dàn dựng công phu của ban biên soạn thuộc hệ thống Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Một bằng chứng hùng hồn nhứt là hình bìa nguyên thủy của tập thơ chữ Hán in hình hai bàn tay bị xiềng nắm chặt lại đưa lên, phía trên đề ngày 29-8-1932 – 10-9-1933, nghĩa là tập thơ được sáng tác trong giai đoạn trên. Nhưng theo cộng sản Việt Nam thì tập thơ được “Bác” sáng tác từ 29-8-1942 đến 10-9-1943,  trong giai đoạn “Bác” bị bắt tại biên giới Trung Việt, bị giam nhà tù của Tưởng Giới Thạch, trải qua nhiều trại.

Ông Đặng Thai Mai với chức vụ Chủ Tịch Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật được giao nhiệm vụ hiệu đính tập thơ (1959-1960) . Cuốn sổ tay của Bác hiện còn được lưu trữ, có ghi trên bìa hai con số: 1932-1933. Trong lúc làm việc, Gs Đặng Thái Mai đã đề đạt lên Bác câu hỏi về điểm này qua Ban Tuyên giáo Trung ương. Và đã được trả lời: “Hai con số trên đây là sai; đúng ra là 1942-1943” (Nghiên cứu, học tập thơ văn Hồ Chí Minh , Nhà Xuất Bản Khoa học xã hội, 1979) . Hồ Chí Minh cũng không trả lời gì cả, giữ mãi thái độ lặng im, lại ve vuốt ông Mai và vội vàng thăng chức cho Đặng Thai Mai làm Viện Trưởng Viện Văn Học, một chức vụ bao trùm mọi sinh hoạt văn học .

Trong một dịp khác, nhiều lần nói chuyện với triết gia Trần Đức Thảo ở Paris 1992-1993 , có lần ông BDKh (dạy Toán ở Đại Học Pierre Curie, Paris VI), hỏi Hồ Chí Minh có phải là tác gỉa tập thơ Ngục Trung Nhựt ký hay không ?

Ông Trần Đức Thảo trả lời liền “Nếu Hồ Chí Minh là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký, thì ông ta đã phổ biến rầm rộ tập thơ này từ tháng 9/1945 , nhất là từ 1954 !

Vì nhu cầu tuyên truyền rất lớn lao của lãnh tụ đảng, và nhất là vì tính háo danh của Hồ Chí Minh mà ai cũng biết .

Vả lại, văn phong của Ngục Trung Nhật Ký không phù hợp với khả năng và tính cách của ông ấy .

Ông Trần Đức Thảo cho rằng việc xác nhận tác giả tập thơ rất đơn gian . Sau này các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu kỹ hơn, thí dụ so sánh chữ Hán viết tay của Ngục Trung Nhật Ký và chữ Hán viết tay của Hồ trong bức thư gởi vợ Tuyết Minh và 2 bức thư gởi Lâm Đức Thụ, xưng em với Thụ, yêu cầu Thụ tìm cách cúu Hồ ra khỏi nhà tù Hồng kông . Việc so sánh chữ viết của tài liệu này, năm rồi, chúng tôi đã nhờ Giáo sư Hán nôm Nguyễn văn Sâm giúp và ông đã trả lời là hoàn toàn không phải của Hồ Chí Minh .

Vậy chuyện HCM ở tù ở Trung Quốc 1942-1943 cũng có nghi vấn !

Bìa sách được sửa 29-8-1932 tới 10-9-1933 thành 29-8- 1942 tới 10-9-1943

Có một dịp nữa để nói thêm .Tập thơ Ngục Trung Nhật Ký đã trưng bày trong Triển lãm Cải Cách Ruộng Đất tại Hà Nội suốt trong 3 tháng, từ tháng 9 tới tháng 11 năm 1955, ở phố Bích Câu, mà sách không có tên tác gỉả. Vô danh . Sau đó được đưa trả về Phòng Luu trử của Trung ương đảng (Hoàng Quảng Uyên, NHẬT KÝ TRONG TÙ , số phận và lịch sử , NXB Thanh Niên , Hà nội, 2007)

Như Trần Đức Thảo nói, Hồ Chí Minh vốn lẽ con người hám danh . Vậy nếu tập thơ Ngục trung Nhựt ký quả thật là của Hồ, tác giả, thì ông ta đã không ngu dại gì mà để cho thi phẩm của mình trưng bày “Vô danh” bao giờ ! Trong trường hợp này, cả Tố Hũu, thi sĩ nâng bi, Trưởng Ban tuyên truyền TW cũng chưa kịp nhận thấy cơ hội tốt để có thể lập công lớn .
Thế rồi đến ngày19/5/1960, tập thơ chánh thức được xuất bản và phổ biến với tên tác giả là Hồ Chí Minh !

Trong bản in đầu tiên 19/5/1960 có 113 bài . Nhưng sau này, Ban Tuyên Giáo của Tố Hữu tự tiện thêm những bài thơ không có trong bản gốc của Ngục Trung Nhật Ký, một cách gian xảo, mà lại được sự đồng tình của Hồ.

Chuyện nhỏ này khá đủ cho thấy Hồ Chí Minh từ bản chất là bất lương, hiện tượng của một con người tâm thần mất quân bình do tánh cuồng danh .

Một chứng minh đáng ghi nhận nữa cũng về Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục trung Nhựt ký . Ngày 18/10/1998, giáo sư người Nhật bổn Kenichi KAWAGUCHI, associate professor, TOKYO University of Foreign Studies, trong một buổi thuyết trình ở Ban Việt Học của Trường Đại học PARIS 7, kể chuyện một lần đến Hà Nội nghiên cứu về Hồ Chí Minh và tập thơ Ngục Trung Nhật Ký, được một người trong Viện Văn Học Việt Nam cho biết là Hồ Chí Minh không phải là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký . Giáo sư Kawaguchi mừng quá, vội xin tên, chức vụ của vị Giáo su việt nam đó để ghi làm tài liệu nhưng ông ắy lắc đầu từ chối, bảo chỉ nên biết chắc như vậy là đủ .

Sau cùng“Ai thật sụ là tác giả Ngục trung Nhựt ký” ? (Who was really the true author of Diary in the Prison) . Đó là tít một bản tin của Quora phổ biến trên internet, được DLB đăng lại 28/06/2019, theo đó tác giả Ngục trung Nhựt ký là một Đại úy (Capitaine) người của Quốc dân đảng bị buộc tội làm gián điệp cho Quân đội nhựt . Ông minh oan mình vô tội, dẩn chứng những liên hệ chặc chẻ của ông với vị Chỉ huy củ, Tưởng Giới-thạch (Chiang Kai Shek) và bạn của ông là Tướng Lương Hoa-thịnh (Liang Huasheng) . Những bài thơ của ông nói lên tinh thần chiến đấu của ông chống quân nhựt xâm lăng, ngay cả lúc ông nằm tù .
Ông so sánh những bài thơ trong Thiên gia thi (Qianjiashi) mô tản cảnh đẹp, dạy ở Tiểu học, với những bài thơ của ông sáng tác sôi nổi tinh thần yêu nước chống quân nhựt xâm lăng .

Ông lấy làm tức giận bị bắt vào dịp Quốc khánh mừng ngày ra đời nền Cộng hòa Dân quốc . Ông chứng tỏ là người hiến dâng trọn đời mình cho nước Tàu, Tổ quốc của ông .

… Tác giả tập thơ chỉ rỏ nơi diển ra những trận đánh . Trong một bài thơ khác, ông nói về bệnh tật của ông .

Trong một bài thơ khác nữa, tác giả nhắc lại từ năm 1935, Tướng Lương Hoa-thịnh, bạn của Quốc dân đảng, đã có mục đích dẹp sạch đám cộng sản nổi loạn ở Nanchang, ở Kunming và ở nhiều nơi khác .

Đúng như Gíáo sư Lê Hũu Mục phân tách, một số sự việc, địa điểm, thời điểm trong những bài thơ đủ nói rỏ Hồ Chí Minh dứt khoát không thể là tác giả tập thơ tù được .
Nay bài báo này góp phần nói rỏ thêm sự thật .

Hồ Chí Minh không phải tác giả Bản Yêu sách của Dân an-nam (Revendications du peuple Anamite 1919)

Đây cũng lại là một chuyện quên đính chánh của Hồ Chí Minh tuy quên khá lâu . Lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành về Paris, liên lạc mật thiết và có thời gian sống chung với Cụ Phan Chu Trinh tại nhà luật sư Phan Văn Trường . Anh phải nhận sự trợ giúp của cụ Phan, vì đời sống khó khăn, vừa học nghề sửa hình của 2 cha con Cụ Phan (Phan Chu Trinh, Phan Chu Dật) . Tất Thành cùng tham gia các hoạt động yêu nước với Phan Chu Trinh , Phan Văn Trường tại Paris . Bản Yêu sách gởi tới Hội nghị Versailles năm 1919 do nhóm này soạn thảo.

Cụ Phan Chu Trinh diễn ý ra tiếng việt, Cụ Phan Văn Trường viết tiếng Pháp, và Tất Thành đứng tên Nguyễn Ái Quốc, đem đến trao cho Hội nghị Versailles năm 1919 .

Nên nhớ suốt 8 năm dài (1911-1919) làm nghề khi phụ bếp, lúc bồi bàn trên tàu viễn dương Pháp để muu sinh, Nguyễn Tất Thành không có thì giờ đọc sách để cải thiện tiếng pháp căn bản lớp ba (Cours élémentaire) của mình, mặc dầu có thể nói tiếng pháp trôi chảy hơn lúc vừa học xong nhưng chắc chắn cậu Nguyễn Tất Thành không đủ trình độ có thể là tác giả của Yêu sách của nhân dân An Nam 1919 như Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng gắn cho ông ấy (Vàng trong lửa , Ban KHXH Thành Ủy T/pHCM 1990) .

Đảng công sản, nay thử học bài học vở lòng Làm người lương thiện, hảy đem trả Bản Yêu sách cho 2 Cụ Phan và ca ngợi Hồ Chí Minh là người dũng cảm, lảnh sứ mạng cầm bản văn đem nạp cho Hội nghị Versailles, không chút sợ sệt .

Hồ Chí Minh cũng không phải …

Quyển sách “Bản án chế độ thực dân pháp, Phong tục ở Thuộc địa, loạt đầu tiên (Le procès de la colonisation française, premìère série, Moeurs coloniales, Librairie du Travail) cũng được cộng sản ở Việt nam nói tác giả là Hồ Chí Minh . Quyển sách xuất bản chắc ở Paris tuy không có ghi Paris và cả ngày tháng nào, cũng không thắy. Tờ báo Le Paria, số kép 36-37, ra tháng 9-10/1925, không nói gì đến quyển Bản án chế độ thực dân Pháp . Bổng tới số 38, tháng 4/1926, người ta thấy viết nguyên văn như sau : “Vừa ra mắt cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp, Phong tục ở thuộc địa”, của Nguyễn Ái Quốc, giá 5 francs… (Nguyễn Thành, Góp phần tìm hiểu Nguyễn Ái Quốc HCM, NXB Tổng hợp t/pHCM , 2018)

Vậy theo quảng cáo trên báo Le Paria số 38, tháng 4/1926, quyển Le procès de la colonisation française , Librairie du Travail, Paris, phải được vừa xuất bản trong đầu năm 1926 (tháng 4/1926) .

Theo đó thì tác giả cuốn sách này chỉ có thể là 1 trong 3 người : Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thế Truyền . Mà hai người Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, lúc đó đã đi khỏi Paris từ 1924 . Vả lại nếu Phan Văn Trường là tác giả cuốn sách này, thì chắc ổng đã nhắc lại trong hồi ký “Phan Van Truong, Une histoire de conspirateurs anamites à Paris” (Editions L’Insomniaque, Paris 2003) .

Từ tháng 6/1923 , Nguyễn Tất Thành đã sang Nga làm gián điệp cho Xịt (Staline) . Từ tháng 12/1924, Nguyễn Tất Thành-Lý Thụy bận hoạt động bí mật ở Quảng Châu, Trung Quốc cho Nga . Vậy khó có thể xảy ra chuyện Nguyễn Tất Thành-Lý Thụy là tác giả cuốn sách Nguyen Ai Quoc, Le procès de la colonisation française, Librairie du Travail, Paris !
Vã lại, tác giả cuốn sách này phải là người am hiểu luật học, có nhiều thì giờ nghiên cứu, suy nghĩ, quen viết lách bằng tiếng Pháp, mà Nguyễn Tất Thành vốn là con người năng động, di chuyển không ngừng nghỉ, vừa hoạt động gián điệp, vừa lẩn trốn mật thám, lại kém kiến thức chánh trị học . Vậy chỉ có thể Nguyễn Thế Truyền là tác giả cuốn sách Nguyen Ai Quoc , Le procès de la colonisation française, Librairie du Travail , Paris ! Nguyễn Thế Truyền từng dùng bút hiệu Nguyễn Ố Pháp của Ngũ Long, xem số 31, và sau đó, đổi thành bút hiệu Nguyễn Ái Quốc của Ngũ Long ! Ngoài ra, ở trang cuối cùng 125 của cuốn sách Nguyen Ai Quoc, Le procès de la colonisation française, première série, Mœurs coloniales, Librairie du Travail, Paris, có lời rao “Sẽ xuất bản “Nguyen The Truyen, Le procès de la colonisation française, deuxième série“.

Sự thật rất rõ trong thời điểm quyển sách xuất bản, Hồ Chí Minh không còn ở Paris nữa và khả năng lớp BA ở Trung kỳ, rồi đi làm bồi tàu kiếm sống, thì không thể nào viết được quyển sách đó .

Thôi không có gì tốt hơn là sự thật nên trả về cho lịch sử .

Nguyễn thị Cỏ May

14 BÌNH LUẬN

  1. Bác Hồ làm gì mà không được.Bác làm tình với con nít 13,14 tuổi còn được ki mà,tìm đọc lần gặp bác tôi bị mất trinh của cháu gái mới 14 tuổi thuộc phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng.

  2. -Ca dao:”Sáng trăng em ngở tối trời /Em ngôi Em để sự đời em ra (sự đời như cái lá đa/đen như mõm chó chém cha sự dời’).
    Đây là 4 câu ca dao thể 6/8.Mong Ông Cử Hai không phiền lòng .
    -Hồ Dâm chết vì bị Lê Duẩn băn bằng sung lục cở nhỏ khi phái đoàn ra về chỉ còn mình Lê Duẩn nán lại (đã đọc được tài liệu ày ở dâu đó ,xin lổi không nhớ (khi tăm đẻ khâm liêm HCM ngươi ta khám phá ra một dấu thủng nhỏ ngay giữa trán . Tài liệu còn nói Lê Duẩn thóa mạ Thằng bác Hồ Dâm trước khi két thúc cuộc đời của 01 quỷ vương)
    -Cái xác Hồ năm trong hòm và trong khi chờ đọi xây lăng ,thì cũng là lúc không tập 12 ngày đêm của không quan Hoa kỳ nên cả bộ sậu BCT lúc đó đều sơ tán ẩn núp đem theo cái hom của Hồ.Mội người đêu tìm chổ kín đẻ núp ngay cả các tên khiêng hòm . Sau đó khi còi báo động bình yên thì Phát Hiện Xác Hồ mất tích. Tfm một cái xác khác gần gióng thằng bác (cao ốm có râu) sửa sang trang điểm (hóa trang) thành thằng Bác.
    Nên có người nói đó là xác giả. Bài viết còn nói là thằng Bác là người trung quốc dân tộc Hẹ (Trần Đĩnh có viết đoạn các bác cháu qua TQ tới tộc Hẹ chơi, Dù có thông dịch bác cung như quên mất vai đóng của mình ,đã chỉ cho bọn theo Bác chổ nào có gái đẹp ,chổ nào có rượu và thức nhăm ngon, Chổ nào rẻ. Bác còn nói tiếng Hẹ như người HẸ !(Đèn Cù/Trần Đĩnh).
    Thằng Bác cũng nói chuyện không qua thông dịch viên trong phòng riêng của Mao Xếnh Xáng sau khi họp ong (P/ĐVN có thống dịch viên)
    (nên TC cho Diêp viên của chúng rô cái xác ây vì sợ lộ chuyện HCM là điệp viên tàu gài vào)
    – Bác Hồ có thể nói tiếng Pháp và Tây cung hiểu (như những ME TÂY),nhưng thằng Bác không thể viết một bài văn như NAQ Viết dù bằng tiếng Việt. NAQ là tên của nhóm Phan Chu Trinh ,Nguyễn thế Truyền ,Phan văn Trường ,Hồ chí Minh.Nguyễn thế Truyền là sv du học ,Phan văn Trường là luật sư (sách CS có nhắc tới Nguyễn an Ninh trong nhóm Phan chu Trinh. Ong này sau theo csđệ tam quốc tê và nay VC vinh danh bằng một nhà thờ lưu niệm to nơi quê Ông ta.Riêng HCM vì ít học ít hiểu nên chỉ ngồi nghe,không hieru thi hỏi l/s Phan ăn Trường (PCT gởi gấm ) Do đoa họ viết ký tên Nguyễn ái Quốc rồi “SAI” HCM đem đến báo đẻ đăng Nên NAQ không thể và không là HCM .Đây là nhận vó.như nhận tập “NKTT” là của y vậy !..

    • Cám ơn bạn đã đọc bài thơ cùa tôi và cho nhận xét. Về bài thơ ” Sáng trăng suông “, có nhiều dị bản , tôi dùng bản của Thi viện như sau :

      Sáng trăng suông em nghĩ tối trời
      Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ dân gian » Ca dao » Ca dao than trách thân phận

      Sáng trăng suông em nghĩ tối trời,
      Em ngồi em để cái sự đời em ra.
      Sự đời bằng cái lá đa,
      Đen như mõm chó, chém cha sự đời.

      Nguồn: Hoàng Trọng Thược, Thi ca châm biếm và trào lộng Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969

      Xin mượn câu nói xưa để cám ơn bạn :” Khâu hữu hạnh, cẩu hữu quá nhân tất tri chi ” ( Khâu này thật may, ví bằng có lỗi người ta ắt biết .)

      22.9.2019
      Cử Hai

  3. Tôi tin là Ông Hồ sai thư ký viết tờ di chúc rồi Ông chép laị, nên tôi làm hai bài thơ

    Tờ di chúc

    Ông già sau nhiều lần bệnh hoạn
    Sai người làm một bản chúc thư
    Đêm ngày lầm lũi suy tư
    Chép đi chép lại vẫn chưa vừa lòng

    Đám con cháu thấy ông rách việc
    Sắp đi rồi vẫn tiếc sự đời (1)
    Láo liên khấp khởi đợi thời
    Coi lời ông nói như lời gió bay

    Ông bực bội rút dây dưỡng khí
    Chọn đúng ngày phẫn chí lìa đời
    Sợ phiền hà việc ăn chơi
    Con cháu ông vội di dời báo tang

    Tờ di chúc bẽ bàng còn đấy
    Chỉ như là tờ giấy lộn thôi
    Vậy mà có kẻ dở hơi
    Đem ra nghiền ngẫm tìm tòi băn khoăn

    (1) Sáng trăng suông em tưởng tối trờì
    Em ngồi em để hở sự đời em ra
    (Ca dao)

    1.9.2019
    Cử Hai

    Chuyện đời ông

    Năm Bính Tuất tháng ngày quý tỵ (1)
    Đón Pháp về thống trị dân nam
    Treo cờ, biểu ngữ lăng xăng
    Tháng 5, mười chín chọn làm ngày sinh

    Bản di chúc đỉnh đinh chẳng viết
    Chỉ giả vờ chép chép bôi bôi
    Mực xanh mực đỏ vẽ vời
    Chủ tâm cốt để lừa người đời sau

    Ngày thìn tháng nhâm thân Kỷ Dậu(2)
    Nằm chờ đoàn tẩu cẩu đi xa (3)
    Nhẹ nhàng rút ống thở ra
    Tự mình quyết định chuyển qua từ trần (4)

    Lũ con cháu muôn phần vui sướng
    Dấu biệt ngày ông xuống diêm đài
    Hai mươi năm tới mới khai
    Ngày 2 tháng 9 là ngày ông tong

    Suốt cuộc đời ông không sống thật
    Ngày sinh bá vơ, ngày mất bá vơ
    Cả ngay cái xác bây giờ
    Cũng làm bằng sáp đánh lừa người thăm

    (1) Ngày 19 tháng 5 năm 1946 nhằm ngày 14 tháng 4
    năm Bính Tuất, ngày quý tỵ, tháng quý tỵ
    (2) Ngày 2 tháng 9 năm 1969 nhằm ngày 21 tháng 7
    năm Kỷ Dậu, ngày canh thìn, tháng nhâm thân
    (3) tẩu cẩu : người do thám
    (4) Thơ Tú Tre : Tin đâu như sét đánh ngang, Bác Hồ đang sống
    chuyển sang từ trần

    4.9.2019
    Cử Hai

  4. Theo nhà báo Bùi Tín – từng trực tiếp đứng gần Hồ chí Minh trong Phủ Chủ Tịch khi đón Lưu Thiếu Kỳ, Kossưghin, nhà báo Burchett … thì khả năng ngoại ngữ Hoa, Nga, Pháp, Anh của Hồ chí Minh rất tầm thường, ấp úng, ngập ngừng, dùng chữ lẫn lộn, sai văn phạm, và có khi phải nhờ Phạm Văn Khoa dịch lại khi nói tiếng Quan thoại.

  5. Giáo sư “bưng bô” Hoàng Chí Bảo từng đăng đàn phát biểu:”…bác nói được 29 thứ tiếng, chưa kể tiếng đồng bào dân tộc nước Việt”! Ông ở đâu mà không vào đây bênh vực bác Hồ…để bọn “phản động” chúng nói bác không ra gì?

  6. Bản di chúc mấy trang, viết đi viết lại cả 3 năm vẫn không xong thì làm sao viết sách được. Trình độ tiếng mẹ đẻ như thế thì ngoại làm sao khá được mà viết sách.

  7. Đến ngay như hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam Cộng Hòa mà Việt gian Hồ chí Minh còn quơ lấy đem dâng cho đế quốc Tàu cộng, huống chi một tâp thơ !

    Học giả Lê Hữu Mục kết luận gì về tập thơ Ngục Trung Nhật Ký?:

    “Trước sau chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29 /8/32 đến 10/9/33. Năm đó thì Hồ chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942 – 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời.

    “Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất”.

  8. Nhà biên khảo Thụy Khê lột mặt nạ tên đại bịp Hồ chí Minh :

    Tác giả Cung Trầm Tưởng :” Nguyễn Ái Quốc , thật ra, đó là bút hiệu chung của ba nhà đấu tranh tên tuổi Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, Cử nhân Triết Nguyễn Thế Truyền và Tiến sĩ Luật Nguyễn An Ninh. Ba người này cho Nguyễn Tất Thành đội lốt Nguyễn Ái Quốc để đánh lạc hướng Sở Mật thám Pháp.

    “Chúng ta hãy theo Thụy Khuê đi vào thế giới của những sự việc cụ thể :

    “Cuộc truy tìm và khảo sát văn bản, hồ sơ của Bộ Thuộc Địa và Sở Mật Thám Pháp, và những điều Hồ Chí Minh đích thân viết ra dưới bút hiệu Trần Dân Tiên cho thấy khả năng Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành như sau:

    “Bút hiệu Trần Dân Tiên : Tất Thành bắt đầu học tiếng Pháp trong thời gian làm phụ bếp trên tàu Latouche-Tréville; thầy dạy là hai người lính trẻ giải ngũ, hồi hương. Sau được cô sen nhà ông chủ tàu ở Sainte-Adresse dạy bổ túc. Phải nhờ một đồng nghiệp không có trình độ cao lắm viết giùm đơn xin học ở trường Thuộc Địa . Đến năm 1919, vẫn chưa viết đươc tiếng Pháp nên phải nhờ Luật sư Phan Văn Trường viết hộ. Trong hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, theo lời thú nhận của Trần Dân Tiên, Tất Thành “nhức đầu vì khó hiểu” những gì mà các tham dự viên phát biểu.

    “Bây giờ chúng ta hãy lật hồ sơ của Sở An Ninh Pháp để xem họ đánh giá khả năng Pháp ngữ của Tất Thành như thế nào :

    “Trong báo cáo ngày 20/1/1921 của điều tra viên Josselme trình thượng cấp, ông ta viết: “ Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc đều thấy một sự thực hiển nhiên: Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.” Tổng thanh tra Pierre Guesde cũng có một đánh giá tương tự về trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành: “Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc” .

    “Thụy Khuê còn cung cấp cho chúng ta thêm một chứng cớ hùng hồn khác nữa: một tài liệu video của Viện Quốc gia Lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh INA-Institut National Audiovisuel- về buổi phỏng vấn Hồ Chí Minh của một nhà báo Pháp tháng 6/1964. Trong buổi phỏng vấn này, Hồ chí Minh đã trả lời với một tiếng Pháp thô thiển, “ có nhiều lỗi sơ đẳng, có câu ông dịch nguyên văn tiếng Việt” như câu: “Le people Viet Nam c’est un et le pays du Viet Nam c’est un”- ông dịch từng chữ khẩu hiệu: “Nước Việt Nam là Một, dân tộc Việt Nam là Một” sang tiếng Pháp. Trên 70 tuổi đầu mà Hồ chí Minh vẫn không bỏ được cái tật nói một thứ tiếng Pháp bồi của anh Ba phụ bếp năm xưa.

    “Tất cả những dẫn chứng trên nhất trí với nhau ở một điểm: Với cái vốn Pháp văn nghèo nàn, khập khiễng của mình, làm sao Tất Thành có thể trước tác những bài báo, tiểu luận uyên thâm ký tên Nguyễn Ái Quốc mà Hồ chí Minh mạo nhận là của mình!

    “Ngoài ra, sự dốt tiếng Pháp của Tất Thành còn làm chúng ta phải nghi ngờ về trình độ học vấn thực sự của hắn. Nếu quả thật hắn đã tốt nghiệp bằng tiểu học Certificat d’Éùtudes Primaires, đã học hai năm ở trường trung học Quốc Học Huế, sau đi dạy tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết trước khi “xuất dương tìm đường cứu nước” theo như tiểu sử chính thức của Hồ chí Minh thông báo, thì trình độ Pháp văn của Tất Thành là khá cao, do đó đâu phải nhờ hai anh lính thợ và một cô sen dạy tiếng Pháp khi mới đến Pháp . Điều này chứng tỏ trình độ học vấn của Tất Thành trước khi xuất dương phải là dưới cấp tiểu học, và như vậy lại càng không có khả năng viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc ” .

  9. Khả năng Pháp ngữ của tên Hồ chí Minh bồi tàu cho Pháp, chưa học hết tiểu học :

    Luật sư, thượng nghị sĩ, nhà báo Nguyễn Văn Chức : ” Ngày xưa tôi tập sự luật sư tại văn phòng Luật sư Bùi Tường Chiểu, số 148 Pasteur, Sàigòn. Luật sư Chiểu từng quen thân luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Luật sư Chiểu kể lại rằng luật sư Nguyễn Mạnh Tường quả quyết: Nguyễn Tất Thành chỉ nói đuợc thứ tiếng Pháp của anh em lính thợ Annam không chuyên nghiệp ONS (Ouvrier Non Spécialisé) được tuyển mộ sang Pháp thời đó. Nguyễn Tất Thành không đủ trình độ để hiểu, chứ chưa nói viết, những bài tham luận có tầm vóc như “Le Procès Contre La Colonisation Francaise”, và nhất là bản “Memorandum des Révendications du Peuple Annamite” gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles năm 1919.

    ” Bạn tôi, Chủ nhiệm Lê Hồng Long của tờ Thế Giới Ngày Nay, gửi cho tôi tuyển tập “Une Histoire de Conspirateurs Annamites à Paris” của luật sư Phan Văn Trường. Trong bài tựa của tuyển tập, học giả Ngo Van viết “Năm 1919, [Phan văn Trường viết] ‘bản văn ngoại giao về những yêu sách của nhân dân Annam’ gửi Hội Nghị Hoà Bình tại Versailles. Bản văn đó, Nguyễn Ai Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này, đã mạo nhận là tác giả.

    ” Năm 1960, cụ Nguyễn Thế Truyền ra tranh cử tổng thống tại miền Nam Việt Nam. Tôi có đi theo anh em báo chí đến nghe Cụ nói chuyện. Khi đuợc hỏi về những tài liệu viết bằng tiếng Pháp tại Paris ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhất là bản Mémorandum gửi Hội Nghị Hoà Bình Versailles 1919, cụ Truyền nói: Nguyễn Tất Thành chưa học hết tiểu học Pháp. Lúc đó ở Paris, nhóm chúng tôi mướn anh ta đi phân phát những tài liệu đấu tranh bằng tiếng Pháp do chúng tôi viết. Anh ta đã nhận xằng mình là Nguyễn Le Patriot và nhận xằng mình là tác giả những tài liệu đó “.

  10. Hồ chí Minh : Tay chôm chỉa chuyên nghiệp :

    Sử gia Trần Gia Phụng : ” Sở dĩ ông Hồ và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông Hồ, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn bưng bít, không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Rủi ro có người nào phát hiện, người đó cũng không dám lên tiếng dưới chế độ độc tài của ông.

    ” Ngay cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’, ông Hồ mượn của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền; và cái tên ‘Hồ Chí Minh’ ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm. Chẳng những lấy tên ‘Hồ Chí Minh’ của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936 để đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa để được giúp đỡ…..”.

  11. Facebook Phạm Xuân Cần : Câu thơ ” của” Hồ chí Minh: “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên”. Thật ra đó là một câu trích trong sách giáo khoa chữ Hán xưa “Ấu học ngũ ngôn thi”. Nhà thơ Ngô Văn Phú đã giới thiệu và dịch đăng một chương cuốn sách này trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trong đó nguyên văn chữ Hán của bốn câu thơ này như sau: “Tạc sơn thông đại hải/ Luyện thạch bổ thanh thiên/ Thế thượng vô nan sự/ Nhân tâm tự bất kiên” (鑿 山 通 大 海/ 鍊 石 補 青 天/ 世 上 無 難 事/人 心 自 不 堅).

    Hai câu thơ “của” Hồ chí Minh : “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
    Thật ra đây là hai câu trong một bài ca dao khá nổi tiếng thời chống Pháp của…nhà thơ Thanh Tịnh. Bài này được nhà thơ Thanh Tịnh sáng tác năm 1948 trong cuộc vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Đó là bài Dân no thì lính cũng no. Nguyên văn:

    “Trông lên thì thấy đầy sao
    Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
    Dễ trăm lần không dân cũng chịu
    Khó vạn lần dân liệu cũng xong
    Thóc thuế mà có dân đong
    Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
    Đêm nằm nghĩ lại mà coi
    Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên ?
    Nhân dân là bậc mẹ hiền
    Cơm gạo áo tiền thì mẹ phải lo
    Dân no thì lính cũng no
    Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công…”

  12. Các trang mạng đăng tải thực tài mần thơ của ” thợ thơ ” Hồ chí Minh chỉ có bây nhiu :

    “Hòn đá to, hòn đá nặng
    Một người vác không đặng
    Hòn đá to, hòn đá nặng
    Hai người vác, vác phải đặng”

    “Đau khổ chi bằng mất tự do
    Đến khi buồn ỉa cũng không cho
    Cửa tù rộng mở không đau bụng
    Đau bụng thì không mở cửa tù.”

  13. Hồ không phải là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký bởi nó ra đời trước khi Hồ bị bắt đến10 năm ! và nội dung hoàn toàn không ám chỉ gì đến VN từ con người cho đến phong cảnh.Hồ cũng không phải( nhóm Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu,…là đồng tác giả)là tác giả của ” bản án chế độ thực dân ” bởi trình độ ngữ pháp tiếng Pháp của Hồ rất kém do Hồ không chịu học hành đến nơi đến, mà tiếng Pháp đụng một chút là sử dụng ngữ pháp.Chính vì ngữ pháp kém, nên Hồ viết tiếng Pháp trật tùm lum khi làm đơn xin vào học trường thuộc địa và do vậy bị bác( nếu được học, ra trường sau này sẽ làm quan và do vậy, chính Hồ cũng có mộng làm cho Pháp chứ chả có tinh thần yêu nước, yêu đất con mẹ gì cả!).
    Trên đây là hai tình tiết( mà để ý, đối chiếu, so sánh kỹ sẽ thấy ra sự thật) trong những vô vàn tình tiết xạo láo về tất cả những gì dính líu đến Hồ do đảng cộng sản tạo dựng nên để tuyên truyền.Những cái xạo láo do chúng tạo ra cái này đụng cái kia, mâu thuẩn với cái nọ nhiều cho đến nổi chúng không thèm sửa hay cải chính bởi chúng cho chúng , do độc quyền cai trị,có quyền xạo láo, xạo láo một cách quái đản,điên khùng, vô liêm sĩ.Điều tai hại, ác độc ảnh hưởng đến biết bao thế hệ, đến nhân dân, đất nước là chúng dùng mọi cách như tuyên truyền, hù dọa, dụ dỗ để bắt dân chấp nhận những điều xạo láo quái đản như thế là điều mẫu chuẩn để nghiên cứu học tập!

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên